Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 70

Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 139

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hãy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm năm mươi chín, hàng cuối cùng:

       “Hựu như minh kính, ảnh sướng biểu lý” (lại như gương sáng, chiếu suốt trong ngoài), “Ảnh giả, quang ảnh dã. Sướng giả, thông đạt dã. Hải Đông Cảnh Hưng viết” (Ảnh () là bóng của ánh sáng, Sướng () là thông đạt. Ngài Hải Đông Cảnh Hưng nói), pháp sư Cảnh Hưng [nói], “kính quang ngoại chiếu, danh vi ảnh biểu, tức đồng Phật thân quang minh ngoại thư. Ngoại chiếu chi quang hiển ảnh, sướng tại kính nội, diệc đồng sở phóng quang hoàn diệu nguy nhan, cố vân biểu lý”nh sáng của gương chiếu ra ngoài gọi là “ảnh biểu”, giống như thân Phật có quang minh tỏa ra ngoài. Ánh sáng chiếu ra ngoài lại hiện rõ hình ảnh trong gương, cũng giống như quang minh đã phóng ra bèn soi ngược lại, khiến cho vẻ mặt rạng rỡ. Do vậy, bảo là “biểu lý”). Chúng ta xem đoạn này.

Đây là câu kinh văn thứ hai: “Hựu như minh kính, ảnh sướng biểu lý, hiện đại quang minh, sổ thiên bách biến” (lại cũng như gương sáng, chiếu suốt trong ngoài, hiện quang minh lớn, biến hiện ra mấy trăm ngàn thứ). Đây là tỷ dụ, tỷ dụ chuyện đức Phật phóng quang. Trong kinh Đại Thừa, thông thường đức Phật phóng quang đều nhằm biểu thị pháp, biểu thị những nội dung được giảng trong lần này, từ sự phóng quang [thính chúng] sẽ có thể cảm nhận được. “Ảnh sướng biểu lý”: Ảnh () là hình bóng của ánh sáng, Sướng () là thông đạt, chẳng bị chướng ngại. Hải Đông (海東) là Nhật Bản. Pháp sư Cảnh Hưng (憬興) của Nhật Bản[1] có chú giải kinh Vô Lượng Thọ. “Kính quang ngoại chiếu”: Đây là nói tỷ dụ, ánh sáng từ trong gương chiếu hắt ra, bèn gọi là “ảnh biểu” (影表). “Tức đồng Phật thân quang minh ngoại thư” (giống như thân Phật có quang minh tỏa ra ngoài): Đức Phật phóng quang, có khi là đỉnh đầu phóng quang, có khi phóng quang từ bạch hào. Bạch hào ở giữa hai chân mày, bạch hào phóng quang. Có khi là diện môn phóng quang, có khi toàn thân phóng quang. Trong đoạn kinh văn này, chẳng nói là bộ phận nào, nhưng “oai quang hách dịch” (oai quang rạng ngời, tràn trề) thì phải là quang minh nơi toàn thân, điều này hết sức đặc thù. “Ngoại chiếu chi quang hiển ảnh” (Ánh sáng chiếu ra ngoài soi rõ hình ảnh), ảnh ở chỗ nào? Ảnh ở trong gương.“Sướng tại kính nội” (hiện rõ trong gương), “diệc đồng sở phóng chi quang” (cũng giống như quang minh đã phóng ra), ý nghĩa này được nói rõ trong câu kế tiếp: Ánh sáng không chỉ chiếu ra ngoài, mà còn tự chiếu chính mình. Đó là “quang minh biến chiếu” (quang minh chiếu trọn khắp). Chiếu ra ngoài là “ảnh biểu”, chiếu chính mình là “biểu lý”, trong lẫn ngoài đều chiếu.

       “Tịnh Ảnh Sớ viết” (Tịnh Ảnh Sớ giảng), bản chú giải này là của Trung Hoa, tức Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ của pháp sư Huệ Viễn đời Tùy, trong ấy cũng nói theo cách này: “Kính quang ngoại chiếu, danh vi ảnh biểu. Ngoại chiếu chi quang, minh hiển kính nội, danh vi ảnh lý. Phật thân như thị, quang minh ngoại chiếu sở phóng chi biểu, hiển diệu Phật thân, danh ảnh biểu lý” (Ánh sáng từ gương chiếu ra ngoài, gọi là Ảnh Biểu. Quang minh chiếu ra ngoài rồi lại hiện rõ trong gương gọi là Ảnh Lý. Thân Phật giống như vậy, quang minh chiếu ra ngoài là Biểu, chiếu rạng ngời thân Phật là Ảnh Biểu Lý). Tiếp đó, lão cư sĩ bảo: “Án thượng lưỡng thuyết” (Xét theo hai thuyết trên đây), đó là cách giảng của các vị tổ sư đại đức Trung Hoa và Nhật Bản từ xưa, “Phật thân nội ngoại ánh triệt” (thân Phật trong ngoài rạng ngời), phóng quang lần này rất đặc thù, toàn thân phóng quang, trong ngoài sáng ngời, “dụ như minh tịnh chi kính” (ví như tấm gương sáng sạch), dùng gì? Dùng tấm gương sáng ngời sạch làu hết mức để tỷ dụ. “Do kính phóng quang ngoại chiếu” (từ kính tỏa ánh sáng chiếu ra ngoài), đó là “ảnh biểu”. “Sở phóng quang minh hoàn chiếu kính nội” (quang minh đã tỏa ra lại chiếu ngược vào kính), đó là “ảnh lý” (影裡).

Trong hai bản dịch đời Ngô và Hán, [các câu như] “Phật quang sổ bách thiên sắc, sổ bách thiên biến, quang thậm đại minh, thượng hạ minh triệt, nguy nguy trùng minh, giai hiển ảnh sướng biểu lý chi nghĩa” (quang minh của Phật mấy trăm ngàn sắc, mấy trăm ngàn thứ biến hiện, quang minh rất mực sáng rực, trên dưới chiếu thấu suốt, sáng ngời, càng sáng vằng vặc bội phần, đều nhằm nói rõ ý nghĩa “ảnh sướng biểu lý”). Đây là xét theo các bản dịch khác nhau. “Tống dịch vi diện sắc viên mãn, bảo sát trang nghiêm, tắc cánh hiển Phật quang minh trung, ảnh hiện thập phương bảo sát, như đại viên bảo kính, ánh hiện thập phương. Như Chân Giải sở thích: Tắc quang nhan nguy nguy trung, ảnh hiện bảo sát trang nghiêm tướng, kỳ do châu bảo kính trung, năng hiện sâm la vạn tướng. Thượng thuyết chánh hiển Hoa Nghiêm cảnh giới” (Câu “sắc mặt viên mãn, cõi báu trang nghiêm” trong bản Tống dịch đã chỉ rõ: Trong quang minh của Phật hiện bóng mười phương cõi báu, như gương báu to tròn hiện bóng mười phương. Sách Chân Giải giảng rằng: “Trong ánh quang minh vằng vặc, hiện bóng tướng trang nghiêm của các cõi báu trong mười phương, giống như trong gương châu báu hiện ra tướng sâm la vạn hữu”. Thuyết trên đây thật đúng là đang nói về cảnh giới Hoa Nghiêm). Hợp mấy bản này lại để xem, có thể thấu hiểu đôi chút ý nghĩa sâu xa của quang minh này.

Hiện tượng này quả thật đã khiến cho ngài A Nan kinh ngạc, lạ lùng. Ngài nghĩ chuyện này hy hữu, thù thắng, đặc biệt. Trong quá khứ, nghe đức Phật giảng kinh, chưa hề thấy tướng tốt đẹp như vậy. Chúng ta biết ngài A Nan là thị giả của đức Phật, gần như mỗi buổi giảng Ngài chẳng vắng mặt. Đức Phật giảng kinh phóng quang là hiện tượng bình thường, Ngài cũng đều đã thấy; nhưng hôm nay thấy đức Phật toàn thân phóng quang, đó là chuyện hy hữu. Trong Phật pháp, quang minh biểu thị trí huệ, toàn thân phóng quang biểu thị điều gì? Trí huệ viên mãn. Bộ kinh này hiển lộ trí huệ viên mãn của Như Lai, có ý nghĩa này. Thật ư? Chẳng giả tí nào! Chỉ có riêng bộ kinh này là có thể độ hết thảy chúng sanh. Một vạn năm trong đời Mạt Pháp đã trải qua một ngàn lẻ ba mươi bảy năm, từ nay trở đi hãy còn hơn tám ngàn năm, thật sự có thể đắc độ, thành tựu viên mãn trong một đời, chỉ có mỗi pháp môn này, mà cũng chỉ có mình bộ kinh này! Vì thế, [thời tiết, nhân duyên ấy] cảm Như Lai toàn thân phóng quang. Đức Phật phóng quang có phải là do ý nghĩ của chính Ngài hay không? Nghĩ sẽ phóng quang ở chỗ nào, bèn phóng quang tại đó ư? Chẳng phải vậy. Nếu đức Phật có ý nghĩ, Phật sẽ biến thành phàm phu! Do vậy, chúng ta nhất định phải lý giải, phải ghi nhớ: Bất luận đức Phật biểu hiện như thế nào, Ngài chẳng hề khởi tâm động niệm! Chẳng khởi tâm động niệm, chúng ta biết phóng quang là cảm ứng. Quý vị nói xem: Pháp môn này, bộ kinh điển này có tác dụng lớn cỡ nào? Bao nhiêu chúng sanh được lợi ích? Tự nhiên. Như chúng ta đã thấy trong kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn phóng quang từ diện môn, chẳng phải là toàn thân. Do diện môn chẳng phải là toàn thân, chúng ta hiểu bộ kinh ấy cũng hết sức tuyệt diệu, nhưng độ người thuộc căn tánh nào? Bậc thượng căn trở lên. Trong quá khứ, Thiền Tông ắt phải tu kinh này, Mật Tông cũng phải tu. Pháp môn này, tức pháp môn Tịnh Tông “thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn”. Bất luận căn tánh như thế nào, trừ phi quý vị chẳng gặp gỡ, chứ khi quý vị gặp được, chẳng có ai không thành tựu!

      Trong kinh có nói nhiều câu như thế, Phật quang “mấy trăm ngàn màu”, đó là màu sắc của quang minh. “Mấy trăm ngàn thứ biến hiện” là sự biến hóa. “Quang minh rất mực sáng rực”, “trên dưới chiếu thấu suốt”, quý vị thấy đó, sáng vằng vặc bội phần”. Văn tự trong các bản dịch đều nhằm hiển thị ý nghĩa “ảnh sướng biểu lý”. Nhất là chẳng thể nghĩ bàn là như trong bản Tống dịch có nói, các bản khác chẳng có: “Diện sắc viên mãn, bảo sát trang nghiêm” (Sắc mặt viên mãn, cõi báu trang nghiêm). Bản ấy có câu này, [hàm nghĩa] trong quang minh hiện cõi nước, trong cõi nước hiện Phật, trong Phật quang có thể thấy các cõi nước của mười phương chư Phật. Điều này quá hy hữu, cảnh giới ấy là cảnh giới Hoa Nghiêm. Vì thế, cổ nhân nói: Kinh này được gọi là Trung Bổn Hoa Nghiêm là có lý, lời lẽ ấy chẳng phải là nói tùy tiện. Chúng ta nghĩ tới sự thù thắng trong thế giới Cực Lạc, điều ấy cũng có thể khơi gợi chúng ta, khiến cho chúng ta tin sâu, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Chỉ cần sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị nhất định viên mãn Bồ Đề trong một đời, có thể chứng đắc Phật quả rốt ráo, tức Vô Thượng Bồ Đề. Pháp môn này ai nấy đều có phần, bất luận căn tánh như thế nào, thật sự chịu tu, chịu tin và chịu tu, người ấy chẳng phải là phàm nhân. Đừng thấy người ấy hiện thời dường như thiếu học thức, chẳng biết chữ, là hạng ông già, bà cả, người ta thiện căn trong đời quá khứ sâu dầy. Nếu không, người ấy vừa nghe, vừa thấy, vì sao liền tin tưởng? Vì sao có lắm kẻ đọc bộ kinh này vẫn nửa tin, nửa ngờ? Người này chẳng biết chữ, chưa hề niệm kinh, quý vị dạy người ấy niệm A Di Đà Phật, người ấy liền tin tưởng, lạ lùng thay! Thật ra, nếu quý vị thâm nhập kinh tạng, sẽ chẳng thấy kỳ quái. Trong đời quá khứ, trong A Lại Da Thức [của người ấy] đã có căn, đã có chủng tử Phật pháp sâu dầy, tương ứng với Tịnh Tông, nên mới có hiện tượng ấy. Người ấy chắc chắn thành tựu trong một đời.

      Chúng ta xem mấy câu tiếp theo có nói rõ: “Hiện đại quang minh, sổ thiên bách biến, chỉ Phật ư hội thượng phóng đại quang minh, thuấn tức vạn biến, quang sắc tham hồi, tự nhiên tối thắng” (“hiện quang minh lớn biến hiện mấy trăm ngàn thứ”, ý nói: Trong pháp hội, đức Phật phóng quang minh lớn, trong chớp mắt, biến hiện muôn thứ, màu sắc của các tia sáng quyện lẫn vào nhau, trang nghiêm thù thắng tự nhiên). Mấy câu này sẽ được nói cặn kẽ trong phần kinh văn phía sau. Chúng ta trông thấy, có thể cảm nhận đức Phật phóng quang, trong quang minh biến hóa, màu sắc của các tia sáng hòa quyện lẫn nhau, các tia sáng chiếu rọi lẫn nhau, đẹp khôn kể xiết! Tiếp đó bèn nói: “Tự nhiên tối thắng”. Sự tự nhiên này do Tánh Đức vốn là như thế đó. Các nhà khoa học hiện thời đã nói: Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ sanh diệt đều chẳng lìa khỏi ý niệm. Điều này giống như Tướng Tông thường nói: “Duy thức sở biến”. Hãy đặc biệt chú ý chữ Duy. Duy () là chỉ có một mình. [Duy Thức là] trừ Thức ra, thứ gì cũng chẳng có. Thức là gì? Thức là ý niệm. Duy thức sở biến (chỉ do thức biến) thì giới hạn trong mười pháp giới; ngoài mười pháp giới là Nhất Chân pháp giới, là cõi Thật Báo Trang Nghiêm của Phật và đại Bồ Tát. Cảnh tượng trong ấy hễ đã thành tựu bèn chẳng thay đổi, nên gọi là Nhất Chân, bất biến! Con người [trong cõi Thật Báo] sống thọ vô lượng, mà cũng chẳng già suy, vĩnh viễn là dáng vẻ trẻ trung, bất biến. Vì sao? Họ chẳng có thức, thức là gì? Phân biệt, chấp trước, họ chẳng có. Không chỉ chẳng có phân biệt, chấp trước, ngay cả khởi tâm động niệm cũng chẳng có. Sở dĩ Nhất Chân pháp giới hiện tiền là do tập khí vô thỉ vô minh biến hiện, khoa học hiện thời chẳng phát hiện hiện tượng này. Thật ra, khoa học hiện thời cũng rất lỗi lạc, đã nói đến A Lại Da, [A Lại Da là] nguyên khởi của y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Họ có thể nêu ra chân tướng sự thật, chẳng khác gì Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong kinh Đại Thừa từ ba ngàn năm trước. Khoa học đã chứng minh, giải thích cho chúng ta biết cảnh giới chứng đắc của chư Phật, Bồ Tát.

      Trong đoạn văn này, lão cư sĩ nói: “Như Pháp Hoa Kinh Tự Phẩm viết: Mi gian bạch hào, đại quang phổ chiếu” (như trong phẩm Tự của kinh Pháp Hoa chép: Từ tướng bạch hào giữa mày có ánh sáng lớn chiếu khắp”). Trong phẩm Tự của kinh Pháp Hoa, đức Phật phóng quang từ tướng bạch hào. Trong các kinh điển, bạch hào phóng quang được nhắc tới nhiều nhất, cũng là thường thấy nhất, quang minh to lớn chiếu trọn khắp. “Cố tri ‘hiện đại quang minh’, tức bỉ chi đại quang phổ chiếu. Cố tri Ngụy dịch trung chi ‘oai thần quang quang’ diệc ưng đồng thử, hàm biểu Phật chi oai quang minh diệu quảng đại, vô năng tỷ giả” (Do vậy biết “hiện đại quang minh” chính là “đại quang phổ chiếu” trong kinh ấy. Vì vậy, câu “oai thần rạng ngời” trong bản Ngụy dịch cũng tương đồng với câu này, cùng biểu thị quang minh oai thế chiếu soi rạng ngời của đức Phật rất rộng lớn, không gì sánh nổi). Phật, Bồ Tát phóng quang, quang minh ấy do đâu mà có? Từ trong trí huệ Bát Nhã vốn sẵn có trong tự tánh mà ra. Tìm kiếm căn nguyên của nó, căn nguyên ấy có sẵn trong tự tánh. Nó hiện tướng là phóng quang; người hiện thời nói [phóng quang] là hiện tượng vật lý, nhưng nó chẳng phải là vật lý, mà là Tánh Đức. Chúng ta nói là “quang”, giống như ánh sáng mặt trời, còn nói “điện”, tức “thiểm điện” (閃電: tia chớp) thì là hiện tượng vật lý. Phật, Bồ Tát phóng quang là hiện tượng từ tự tánh, hoàn toàn chẳng giống hiện tượng vật lý. Ánh sáng thuộc hiện tượng vật lý có thể tổn thương con người, Phật quang nhu hòa, chẳng tổn hại con người. Phật quang chẳng nhức mắt, mà nhu hòa. Dẫu quang minh sáng đến mấy, vẫn chẳng tổn hại mắt.

      Tiếp đó, sách viết: “Chí ư sổ thiên bách biến, tắc đồng ư bổn kinh Thọ Lạc Vô Cực phẩm” (Còn như câu mấy trăm ngàn thứ biến hiện” thì giống như trong phẩm Thọ Lạc Vô Cực của kinh này), câu này được nói trong phẩm ba mươi hai: “Tự nhiên quang sắc tham hồi, chuyển biến tối thắng” (tự nhiên màu sắc của từng tia quang minh hòa quyện vào nhau, chuyển biến tối thắng), có hai câu ấy. Chúng ta hãy đặc biệt chú ý chữ “tự nhiên”. “Tự nhiên” là nói rõ: Chẳng có khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước. Sở dĩ quang minh hiện tướng, nhất định là do cảm ứng. Chúng sanh có cảm, Phật tự nhiên có ứng. Từ điểm này, chúng ta cũng có thể hoàn toàn lãnh hội: Phật vì hết thảy chúng sanh mà thị hiện đủ mọi thân tướng, đáng nên dùng thân gì để độ, bèn hiện thân ấy, quyết định là chẳng có nghĩ ngợi gì! Chẳng có ý niệm! Ý niệm là Thức. Chẳng có A Lại Da Thức, hoàn toàn do tự tánh lưu lộ. Chúng sanh cảm, sự cảm ấy có sức mạnh to lớn dường ấy, có thể khiến cho trí huệ và đức năng trong tự tánh hiện đủ mọi tướng, các thứ tướng ấy trọn đủ mấy trăm ngàn thứ biến hóa. Thấu hiểu mấy trăm ngàn thứ biến hóa ấy từ chỗ nào? Thật khó! Chúng ta rất may mắn, sanh trong thời đại này, do gặp gỡ Lượng Tử Lực Học nên chúng ta hiểu rõ. Chẳng gặp Lượng Tử Lực Học, sẽ chẳng hiểu Phật pháp, giống như Di Lặc Bồ Tát dạy: Trong một cái khảy ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm; đó là “mấy trăm ngàn thứ biến hóa”, vì mỗi niệm đều chẳng giống nhau. Xưa kia, để giải thích ý nghĩa này, chúng tôi đã nói là một tướng tương tự liên tục. Vì sao? Hoàn toàn chẳng phải là tương đồng, hai ý niệm hoàn toàn chẳng tương đồng, nhưng một niệm sanh diệt quá nhanh. Quý vị hãy ngẫm xem: Đối với một cái khảy ngón tay, các đồng học chúng ta đã tính toán, trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu niệm? Ba trăm hai mươi triệu niệm, mỗi niệm đều khác nhau, một cái khảy ngón tay đấy nhé! Kinh nói là “mấy trăm ngàn thứ biến hóa”. Vì tích lũy nhiều ngần ấy, nên mới sanh ra hiện tượng. Chúng ta có thể cảm nhận hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Hiện thời, các nhà khoa học phát hiện Lượng Tử, còn gọi là tiểu quang tử, biết nó là chuyện như thế nào: Ý niệm tích lũy liên tục, phát sanh huyễn tướng. Nói cách này, chúng ta dễ hiểu. Trên thực tế, hoàn toàn giống như Di Lặc Bồ Tát đã nói, mà cũng là nói rõ: Chân tướng của vũ trụ và nhân sinh do đức Phật đã thấy từ ba ngàn năm trước đến nay đã được các nhà khoa học chứng thực, là thật, chẳng giả!

      Liễu giải chân tướng sự thật thì quý vị mới có thể thật sự buông xuống. Vì sao chẳng thể buông xuống? Do chẳng liễu giải chân tướng. Nay chúng ta có thật sự liễu giải hay chăng? Chẳng có! Vì sao? Nay chúng ta chỉ nghe nói mà thôi, biết là có chuyện như thế đó, vì sao vẫn chẳng thể buông xuống? Làm thế nào để chứng tỏ quý vị thật sự liễu giải? Thật sự buông xuống, chứng tỏ quý vị thật sự hiểu rõ. Chẳng buông xuống, chứng tỏ quý vị vẫn chưa thật sự hiểu rõ. Trong bài kệ Hồi Hướng có câu: “Nguyện đắc trí huệ chân minh liễu” (nguyện đạt được trí huệ thật sự hiểu rõ), trí huệ ấy là trí huệ Bát Nhã trong tự tánh. Trí huệ ấy mà khai, quý vị sẽ thật sự hiểu rõ. Thật sự hiểu rõ, sẽ thật sự buông xuống, ngay cả ý niệm trong tâm cũng chẳng tồn tại thì mới là thật sự buông xuống. Có lúc vẫn khởi tâm động niệm thì chưa được! Chưa buông xuống! Buông xuống chẳng dễ dàng, cũng có nghĩa là chẳng dễ gì thật sự hiểu rõ! Hiểu biết nửa vời thì được, chứ thật sự hiểu rõ ràng thấu triệt khó lắm! “Cố tri Ngụy dịch trung chi oai thần quang quang diệc ưng đồng thử” (vì thế biết câu “oai thần rạng ngời” trong bản Ngụy dịch cũng phải giống như câu này), có cùng một ý nghĩa, đều là biểu thị oai quang của Phật, tức là quang minh oai đức của Ngài chiếu soi rộng lớn, chẳng gì có thể sánh bằng!

       “Tự nhiên quang sắc tham hồi, chuyển biến tối thắng” (tự nhiên màu sắc của từng tia quang minh hòa quyện vào nhau, chuyển biến tối thắng), sự chuyển biến tối thắng ấy chính là điều thứ hai trong ba thứ trọn khắp như sách Hoàn Nguyên Quán đã nói, từ trọn khắp pháp giới, “xuất sanh vô tận”. Xuất sanh vô tận là thuận theo ý niệm, là A Lại Da; nói cụ thể, sẽ là y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đồng thời xuất hiện. Kế đó là nói: “Đồng biểu Phật quang tự nhiên giao tham hồi chuyển, quang sắc biến hóa dũ biến dũ thắng, vô hữu cùng cực” (cùng biểu thị Phật quang tự nhiên hòa quyện vào nhau, xoay chuyển, màu sắc của quang minh biến hóa, càng biến hóa càng thù thắng chẳng cùng cực). Khi khai ngộ, Lục Tổ Huệ Năng đại sư đã nói: “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”, đây cũng là nói tới y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Lớn thì chúng ta nói đến thế giới Hoa Nghiêm, nhỏ thì chúng ta nói đến cảnh giới trước mắt, càng biến hóa càng thù thắng, chẳng có cùng tận. “Chẳng có cùng tận” rất khó hiểu, đấy là Tánh Đức, nó biến hóa đúng là chẳng có cùng tận, rất khó tưởng tượng. Câu kinh văn này khiến cho chúng tôi nghĩ đến lúc bé chơi kính vạn hoa rất giống chuyện này. Kính vạn hoa cấu tạo hết sức đơn giản; từ đó, quý vị có thể thấy hai câu này, càng biến hóa càng thù thắng, chẳng có cùng tận. Ngay cả kính vạn hoa mà còn hiển thị cảnh giới, huống hồ tự tánh. Tự tánh là một ống kính vạn hoa lớn.

      “Tôn giả A Nan, tức tự tư duy” (Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ), “tôn giả A Nan nãi bổn kinh chi đương cơ” (tôn giả A Nan là đương cơ của kinh này). Đương cơ của bộ kinh này là hai vị, nửa bộ trước là tôn giả A Nan, nửa bộ sau là Di Lặc Bồ Tát, biểu thị ý nghĩa rất sâu về mặt pháp. Ngài A Nan biểu thị pháp vận một vạn hai ngàn năm của Thích Ca Mâu Ni Phật. A Nan truyền thừa giáo học và giáo pháp của đức Phật, Di Lặc Bồ Tát biểu thị đức Phật kế tiếp. Di Lặc Bồ Tát hiện đang ngự trên trời Đâu Suất, tu gì? Tu tri túc, tri túc thường lạc. Đâu Suất có nghĩa là Tri Túc, Ngài tu tri túc ở đấy. Thật sự tri túc thì mới có thể làm Phật. Kẻ chẳng tri túc sẽ chẳng thể thành Phật, ý nghĩa biểu thị pháp rất sâu. Tri túc đến mức độ nào? Tri túc đến mức vô cầu, thật sự chẳng tranh cùng người, chẳng cầu nơi đời, thật sự tri túc, mảy may ý niệm đều chẳng có! Cuộc sống thì sao? Sống cuộc đời hoàn toàn tùy duyên, chẳng có gì không tốt. Trong cảnh giới, xác thực chẳng khởi tâm, không động niệm. Khởi tâm động niệm còn chẳng có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? Chúng ta phải hiểu rõ, phải học tập điều này, ý nghĩa biểu pháp trong kinh này quá sâu!

      Di Lặc Bồ Tát đến thành Phật trong thế gian này, thời gian còn rất dài. Kinh nói là năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm sau, Ngài mới từ trời Đâu Suất giáng hạ. Thời gian chẳng có Phật rất ư là dài, nếu Phật, Bồ Tát chẳng quan tâm tới các chúng sanh khổ nạn, tâm từ bi ở chỗ nào? Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh khổ nạn. Chỉ cần chúng sanh có cảm, các Ngài bèn hiện, hiện thân gì vậy? Thân Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng là gì? Cần phải biết: Pháp môn Địa Tạng biểu thị lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, tôn trọng thầy. Nói đơn giản là hiếu kính. Hiếu kính là làm người, sanh lên cõi trời, đó là cội gốc to tát để thành Phật. Quý vị chẳng thể tiếp nhận Phật pháp, khi Phật chẳng trụ thế, bèn dùng gì để giáo hóa nhân dân? Dạy họ hiếu kính. Có thể làm được hai chữ này khó có lắm, người ấy đời đời kiếp kiếp chẳng đọa trong ba ác đạo, có thể giữ vững thân người. Trong tương lai, Di Lặc Bồ Tát xuất thế, người ấy có duyên phận, tức là có duyên phận với Di Lặc Bồ Tát, sẽ tham dự ba hội Long Hoa. Pháp hội của Di Lặc Bồ Tát vô cùng rộng lớn, chẳng giống Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật có tất cả hơn ba trăm hội, hơn ba trăm hội to nhỏ, Di Lặc Bồ Tát chỉ có ba hội. Chúng ta có thể lý giải, thời gian của ba hội ấy rất dài, trong mỗi hội chắc chắn có rất nhiều hội nhỏ thì Ngài mới có thể độ hết những chúng sanh hữu duyên. Phàm là những người tu hành chẳng đạt thành tựu trong thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng chứng quả, trong tương lai đều có thể tham dự ba hội Long Hoa, vì sao? Nay quý vị đã gieo thiện căn nơi Thích Ca Mâu Ni Phật, vẫn chưa thể thành tựu trong thời mạt pháp thuộc pháp vận Thích Ca Mâu Ni Phật, vậy thì quý vị sẽ thành tựu trong pháp hội của Di Lặc Bồ Tát. Mỗi vị Phật đều kế tục nhau độ chúng sanh, từ bi đến tột bậc!

      Chúng ta phải hiểu: Đáng thương nhất là gì? Chính là đời đời kiếp kiếp chẳng thấy Phật pháp, chẳng nghe Phật pháp, trong A Lại Da Thức chẳng có chủng tử Phật pháp, thật sự đáng thương! Người ấy chẳng có thiện căn. Nếu trong một đời có thể nghe một lần, nghe một câu A Di Đà Phật, liền gieo thiện căn trong A Lại Da Thức. Vì thế, chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này, phải liễu giải chân tướng sự thật này, niệm niệm chẳng quên giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn, dùng phương pháp gì để giúp đỡ họ? Niệm Phật. Đối với hết thảy các động vật nhỏ, chúng ta thấy muỗi, trùng, kiến, bèn chắp tay “A Di Đà Phật”, gieo thiện căn cho chúng. Nhiều đời nhiều kiếp sau, chúng nó sẽ nhờ vào một câu A Di Đà Phật ấy mà đắc độ, ai gieo thiện căn ấy cho chúng? Quý vị gieo cho chúng. Người học Phật chẳng bỏ uổng ngày nào, niệm niệm chẳng bỏ lỡ, đó là gì? Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Lại còn thù thắng hơn là những chúng sanh mà nhục nhãn của chúng ta không thấy, họ ở chung quanh chúng ta, có khi chúng ta cảm nhận được, bèn niệm một câu A Di Đà Phật hồi hướng cho họ, họ sẽ cảm ơn. Những công đức tụng kinh, đọc kinh, giảng kinh của chúng ta hoàn toàn có thể chia sẻ cùng mọi người. Trong Phật pháp gọi là “hồi hướng”, danh từ hiện thời là “chia sẻ”, chẳng có ai không đạt được lợi ích. Thường giữ cái tâm này, niệm niệm chẳng bỏ, vô lượng công đức! Tu tập tích lũy công đức trọn chẳng nhất định phải tốn tiền. Có những kẻ giàu có, đâm ra chẳng biết tu công đức, những điều họ đã tu tập là phước đức. Công đức là Bồ Đề tâm, là thiện duyên, là tâm yêu thương hết thảy chúng sanh, nguyện tâm chẳng bỏ chúng sanh, đó là thành tựu công đức của quý vị. Tâm Bồ Đề của chúng ta cũng được bồi dưỡng như vậy trong cuộc sống hằng ngày. Do đó, trong đại hội hoằng pháp của chư Phật, quý vị cũng giống như tôn giả A Nan sẽ làm bậc đương cơ của đại hội.

      Tiếp đó, sách viết: “Nhược luận kỳ bổn” (nếu luận về Bổn), Bổn, tức căn bản của A Nan[2], “thật diệc tùng quả hướng nhân chi Pháp Thân đại sĩ” (cũng thật sự là bậc Pháp Thân đại sĩ từ quả hướng đến nhân). Nói rõ ngài A Nan cũng là thị hiện. Trong hội của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài có thân phận gì? Sơ Quả Tu Đà Hoàn. Đó là biểu diễn trên sân khấu. Trên sàn diễn, Ngài có thân phận là Tu Đà Hoàn, tức Sơ Quả Tu Đà Hoàn. Sau sân khấu Ngài là gì? Sau sân khấu bèn là Pháp Thân Bồ Tát, bậc Pháp Thân đại sĩ minh tâm kiến tánh. Từ quả hướng đến nhân thì tối thiểu chúng ta có thể tin tưởng, chẳng hoài nghi. Tiếp đó, còn chứng cứ, rất khó có: “Pháp Hoa kinh trung Phật cáo Bồ Tát viết: Ngã dữ A Nan đẳng ư Không Vương Phật sở, đồng thời phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. A Nan thường nhạo đa văn, ngã thường cần tinh tấn. Thị cố ngã dĩ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhi A Nan hộ trì ngã pháp, diệc hộ tương lai chư Phật pháp tạng, giáo hóa thành tựu Bồ Tát chúng” (Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật bảo các vị Bồ Tát: “Ta cùng nhóm ông A Nan ở chỗ Không Vương Phật đồng thời phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. A Nan thường ưa Đa Văn, ta thường siêng tinh tấn. Vì vậy, ta đã đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà A Nan hộ trì pháp của ta, cũng sẽ hộ trì pháp tạng của chư Phật trong tương lai, giáo hóa thành tựu các Bồ Tát”). Chuyện này do chính đức Phật nói, chẳng giả. Ngài A Nan đúng là Pháp Thân đại sĩ thừa nguyện tái lai, đến biểu diễn cho chúng ta thấy. Đức Phật đã nói ra chuyện quá khứ. Ở đây, “ta” là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng, Phật Thích Ca cùng “A Nan đẳng”, [ý nói, ngoài A Nan ra] còn có người khác. “Ư Không Vương Phật sở” (ở chỗ Không Vương Phật), Không Vương Phật là tên gọi chung của hết thảy chư Phật, mỗi vị Phật đều có thể gọi là Không Vương Phật. Đây là nói tới sự chứng đắc của Ngài, chứng đắc lý Nhị Không, tức là mỗi vị Phật đều chứng đắc Nhân Ngã Không và Pháp Ngã Không. Ở đây, [Không Vương Phật] là một vị Phật trong quá khứ. Ngài nói khi ở chỗ Không Vương Phật, đức Thế Tôn và A Nan đều cùng tu Bồ Tát đạo, phát Bồ Đề tâm, đồng thời phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đó là Bồ Đề tâm. “A Nan thường nhạo đa văn” (A Nan thường thích nghe nhiều), tập khí khác nhau. A Nan chuộng nghiên cứu kinh giáo, có hứng thú hết sức rộng rãi. Nói cách khác, Ngài tiến bộ khá chậm chạp vì Ngài học quá nhiều thứ, quá tạp. Thích Ca Mâu Ni Phật thật thà hơn, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, nên Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật trước. “Thường cần tinh tấn” (thường siêng năng tinh tấn) là thâm nhập một môn.

      Chư vị phải biết, thành Phật là do từ Giới, Định, Huệ mà thành tựu, chẳng phải là do học rộng nghe nhiều mà thành tựu, nhất định phải biết điều này. Nhưng căn tánh mọi người khác nhau, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, đối với người ưa thích học rộng nghe nhiều, đức Phật mở ra pháp gì? Pháp Tướng Duy Thức, mở ra môn học ấy. Mở ra môn học ấy là do chuyên vì loại người thuộc căn tánh đó. Thật sự là người thật thà, thượng căn lợi trí, đức Phật mở ra môn Thiền Tông, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, mau chóng lắm! Nếu là người trung hạ căn hoặc hạ hạ căn, có thể dũng mãnh tinh tấn, đức Phật liền mở ra Tịnh Độ Tông cho người ấy. Thâm nhập một môn, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, thành tựu trong một đời cũng chẳng thua kém kẻ khác. Hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát, chẳng thua sút người khác. Do nguyên nhân gì? Được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, trọn chẳng phải là giả. Lẽ nào A Di Đà Phật vọng ngữ? Điều kiện quan trọng nhất trong pháp môn này là lòng tin. Quý vị phải thật sự tin, thật sự nguyện, chẳng thể có mảy may nghi lự nào, sẽ thành công. Nếu quý vị có hoài nghi, có nghi ngại, sẽ chẳng thể thành công, quý vị hành theo môn này chẳng trót lọt! Tuy chẳng hành trót lọt, đã gieo thiện căn. Có thiện căn ấy, quý vị có duyên gặp gỡ pháp môn này. Gặp pháp môn rồi lại tiếp tục tu, đến giai đoạn nào đó, thật sự buông xuống, sẽ thành tựu trong giai đoạn ấy. Trong một đời này, chúng ta đã hiểu rõ: Buông xuống vạn duyên, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, sẽ thành tựu trong một đời này. Đời này niệm Phật chẳng thể vãng sanh, đời sau hoặc đời sau nữa còn có duyên phận, còn có thể tiếp tục tu học. Chúng ta hiểu rõ: “Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”. Chư Phật, Bồ Tát hộ niệm hết thảy chúng sanh còn chu đáo hơn mẹ hiền chăm sóc con thơ. Ân đức của Phật chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta thường quên mất Phật, nhưng Phật chẳng thời khắc nào quên chúng ta! Chúng ta được chiếu trụ trong Đại Viên Kính Trí của các Ngài, đó là sự gia trì của đức Phật đối với chúng ta. Bản thân chúng ta thật sự là phiền não, nghiệp chướng quá nặng, chẳng cảm nhận được, nhưng Phật thật sự gia trì chúng ta.

      Ngài A Nan cũng hết sức khó có, ưa chuộng đa văn, phát tâm hộ trì Phật pháp. Vì thế, hoằng pháp và hộ pháp đều chẳng dễ dàng. Quý vị chẳng thông hiểu Phật pháp, làm sao hoằng pháp, làm sao hộ pháp? Phật pháp quyết định chẳng thể dùng ý nghĩa của chính mình để giải thích, [nếu dùng ý mình để giải thích thì] sai mất rồi! Kể từ xưa, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế đã xuất hiện trạng huống ấy, kinh Phật gọi trạng huống ấy là Tăng Thượng Mạn. Phiền não rất phiền phức, chướng ngại quý vị khai ngộ, chướng ngại quý vị chứng quả. Không chỉ là như thế, thậm chí còn chướng ngại thiện pháp của quý vị, phiền phức lắm! Vì quý vị tự cho là đúng, chính mình chẳng có chứng đắc, ngỡ đã chứng đắc, chẳng liễu giải, cứ ngỡ đã liễu giải, dạy bảo người khác như thế, hướng dẫn chúng sanh sai lầm. Hướng dẫn sai lầm, phải chịu trách nhiệm nhân quả. Quý vị xem công án của thiền sư Bách Trượng đời Đường sẽ thấy có kể một câu chuyện: “Nói lầm một chữ chuyển ngữ, đọa thân chồn hoang năm trăm đời”. Vì sao tạo thành hiện tượng ấy? Tăng Thượng Mạn. Chỗ này cũng ban cho chúng ta một khai thị rất trọng yếu, học Phật quyết định chớ nên có tâm ngạo mạn, ngạo mạn là do chính quý vị không biết. Nếu người ta hỏi quý vị: “Tôi chẳng có ngạo mạn, rất khiêm hư, không ngạo mạn”, xác thực là chính người ấy chẳng thể cảm nhận [chính mình đang ngạo mạn]. Đối trị ngạo mạn như thế nào? Khiêm hư. Đối trị ganh tỵ như thế nào? Tùy hỷ. Bồ Tát đều có phương pháp [để đối trị các tật xấu ấy]. Căn bệnh rất nặng, quý vị chẳng có phương pháp đối trị, nó liền khởi tác dụng, chướng đạo.

      Ngài A Nan hộ trì Phật pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật. Xưa kia, Ngài là bạn học của Thích Ca Mâu Ni Phật. Một vị Phật xuất thế, ngàn đức Phật ủng hộ, người có duyên với Phật đều đến giúp Ngài. Hoặc là dùng thân phận Bồ Tát, thân phận Thanh Văn, làm đệ tử, hoặc kẻ tại gia hộ pháp của Ngài, khiến cho một đời giáo học của Ngài được viên mãn. Ngài A Nan cũng hộ trì pháp tạng của chư Phật trong tương lai, Ngài nhất định đã phát đại nguyện ấy. Ở đây, Thích Ca Mâu Ni Phật đã tiết lộ: “Giáo hóa thành tựu Bồ Tát chúng”. i là “Bồ Tát chúng”, cho thấy ngài A Nan là Đại Thừa, chẳng phải là Tiểu Thừa. “Nhược luận kỳ Tích” (nếu luận về Tích của ngài A Nan), Tích () là thân phận thị hiện của Ngài trong hiện tiền, “tắc vi kết tập Kinh Tạng, truyền Phật tâm ấn, truyền thọ Mật Thừa, thừa truyền đại giáo chi quan kiện nhân vật” (là nhân vật then chốt kết tập Kinh Tạng, truyền tâm ấn của Phật, truyền dạy Mật Thừa, truyền thừa đại giáo). Thật sự hộ trì, nay chúng ta nói là “hộ pháp”. Hộ pháp chính là ba chuyện ấy. Kết tập Kinh Tạng: Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế giảng kinh, giáo học, chẳng lưu lại văn tự, chẳng có kinh bổn. Kinh do đâu mà có? Chẳng giống các tôn giáo thông thường. Các tôn giáo thông thường có rất nhiều kinh điển từ cõi trời giáng xuống, Phật giáo chẳng phải vậy. Phật giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên giảng cho mọi người trong thuở Ngài tại thế. Khi ấy, chẳng ghi chép bằng văn tự, do đâu mà có kinh điển? Ngài A Nan trùng tuyên, nhắc lại những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói một lượt. Năm trăm vị Đại A La Hán chứng minh cho Ngài, làm thính chúng. Nghe những lời A Nan đã nói, mọi người đồng ý, đều tán thành, thì mới có thể dùng văn tự để ghi chép, lưu truyền hậu thế, kinh Phật do như vậy mà có. Nếu có một người chẳng đồng ý, nói “tôi nghe đức Phật nói câu này không phải như vậy”, đoạn ấy phải gạt bỏ, thà thiếu chứ không thừa, nhằm giữ chữ tín với đời sau. Do đó, kết tập Kinh Tạng nghiêm ngặt như vậy, chẳng phải là thiểu số phục tùng đa số. Chẳng phải vậy! Một người chẳng đồng ý bèn chẳng thông qua! Đó là kết tập kinh tạng, đó là hộ pháp trong thuở ấy, khiến cho những gì đức Thế Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm chẳng đến nỗi bị tiêu mất!

      Cổ nhân rất dụng tâm, chỉ sợ kinh điển bị thất truyền, đã khắc kinh điển lên đá, chứa trong hang núi, gọi là “tàng chư danh sơn” (cất giữ trong các quả núi danh tiếng) hòng lưu truyền hậu thế. Năm xưa, tôi đến Bắc Kinh thăm cụ Hoàng Niệm Tổ, quen biết hội trưởng hiệp hội Phật giáo thuở ấy là lão cư sĩ Triệu Phác Sơ. Chúng tôi nói chuyện hết sức hợp ý, lão cư sĩ bảo tôi: “Thầy đã tới Bắc Kinh, nhất định phải đến Phòng Sơn xem kinh đá”. Cụ sai người lái xe đưa tôi đi thăm, tôi thấy toàn bộ Đại Tạng Kinh, trong những kinh được khắc ấy còn có mấy bộ chẳng có trong Tạng Kinh hiện thời. Quý vị thấy họ đã sưu tập hoàn chỉnh dường ấy! Nghe nói những bộ kinh ấy đã khắc trong vòng tám trăm năm, khắc qua nhiều đời suốt tám trăm năm, cất trong thạch động tại Phòng Sơn. Dường như có tất cả bảy động, [kinh điển được] cất giữ trong bảy hang động, chữ rất lớn, khắc hết sức đẹp đẽ. Chúng tôi thấy rất thích, cũng thấy hết sức cảm động trước dụng tâm của cổ nhân. Điều này thuộc về truyền thừa Kinh Tạng, chỉ sợ khi có tai nạn, kinh Phật bị thất truyền, nên dùng phương pháp ấy. Hiện thời, thuật ấn loát phát triển, để cho kinh Phật chẳng đến nỗi bị thất truyền, tốt nhất là ấn hành với số lượng lớn, cất giữ các nơi trên cả thế giới. Chúng ta biết là chắc chắn có tai nạn, nhưng chẳng thể là toàn thể thế giới có tai nạn, chẳng thể nào! Nói chung là vẫn có nơi không bị, [kinh Phật] sẽ được bảo tồn. Vì thế, số lượng càng nhiều càng an toàn. Khắc vào đá xong xuôi, cất trong danh sơn, nếu phát sanh động đất, những kinh ấy bị tiêu hết! Chúng ta chẳng thể không bận tâm: Nếu bị động đất thì làm như thế nào đây? Vì thế, ấn hành lưu thông tốt hơn bất cứ cách nào khác. Sau đấy, có một năm tôi sống ở Tân Gia Ba, có một vị cư sĩ cúng dường món tiền năm trăm vạn Mỹ Kim, món tiền ấy rất đáng kể. Chuyện đầu tiên tôi nghĩ đến là in thạch kinh ở Phòng Sơn để lưu thông, có thể in một ngàn bộ. Tôi thương lượng chuyện này với cục tôn giáo của Trung Quốc, vẫn chẳng có cách nào thỏa nguyện. Chẳng phải là đơn vị ấy không đồng ý, mà là cá nhân chẳng đồng ý. Vì thế, chuyện này chẳng thể hoàn thành, tiền giữ lại đó chẳng sử dụng vào đâu được! Năm trước, Thương Vụ Ấn Thư Quán bắt đầu tái bản bộ Tứ Khố Toàn Thư, tôi nghĩ đây cũng là chuyện tốt lành, bèn mua từ Thương Vụ Ấn Thư Quán một trăm bộ, mỗi bộ là năm vạn Mỹ Kim, một trăm bộ là năm trăm vạn, dùng hết số tiền ấy. Hiện thời, sách đã in xong, chúng tôi biếu tặng quốc nội và hải ngoại, đó là quốc bảo của Trung Quốc. Bản gốc được Thương Vụ Ấn Thư Quán của Đài Loan sử dụng là từ Văn Uyên Các[3], tức là bộ được biên chép tốt nhất trong bảy bộ thuở ấy, cất giữ trong hoàng cung. Tuy chẳng phải là in sách Phật, nhưng đó là truyền thống văn hóa Trung Hoa. Văn hóa truyền thống Trung Hoa là cơ sở [để học hỏi] Phật pháp. Chẳng có truyền thống văn hóa Trung Hoa, học Phật nhất định phải tạo lập cơ sở vững vàng từ Tiểu Thừa. Trong tương lai, tại đạo tràng này sẽ cất giữ một bộ. Vì thế, phải thường nghĩ làm thế nào để có thể bảo tồn Phật pháp lâu dài? Hiện thời, tuy khoa học kỹ thuật phát triển, chúng ta hãy nghĩ, nếu vạn nhất có một ngày đại tai nạn hủy sạch khoa học kỹ thuật, chẳng có điện thì sẽ làm như thế nào đây? Computer, đĩa CD/DVD đều chẳng dùng được, đều biến thành phế vật! Có thể như vậy hay không? Có thể lắm chứ! Vì thế, phương pháp thật sự vẫn là in thành sách tốt hơn, lưu thông với một số lượng lớn. Đó là truyền kinh điển.

      “Truyền Phật tâm ấn”: Đây là Thiền Tông. Tôn giả A Nan là tổ sư đời thứ hai của Thiền Tông. Sơ Tổ Thiền Tông là tôn giả Ca Diếp. Ngài Ca Diếp truyền cho ngài A Nan; trong Thiền Tông, ngài A Nan là Nhị Tổ. Quý vị thấy “truyền Giáo, truyền Tông”, Tông là Thiền Tông. Không chỉ là như vậy, Ngài còn truyền dạy Mật Tông, nên Ngài là nhân vật then chốt truyền thừa đại giáo của Thích Ca Mâu Ni Phật. Tiếp đó là nói tới kinh điển Mật Tông. Trong Liên Hoa Sanh Đại Sĩ Ứng Hóa Nhân Duyên Kinh có nói: “Mật Giáo Sơ Tổ Liên Hoa Sanh đại sĩ tùng A Nan thọ Thích Tôn dự chúc truyền phó chi Mật Pháp” (Sơ Tổ Mật Giáo là đại sĩ Liên Hoa Sanh đã từ ngài A Nan nhận lãnh sự phó chúc truyền thừa Mật Pháp của đức Thích Ca). Thích Ca Mâu Ni Phật đã đem Mật Pháp truyền sẵn cho ngài A Nan, để ngài A Nan truyền lại cho Liên Hoa Sanh đại sĩ, cho thấy Ngài xác thực là truyền nhân của Mật Tông. “Hựu Thai Tạng Giới Mạn Đà La Sao tam viết: A Nan mật hiệu Tập Pháp Kim Cang” (Sách Thai Tạng Giới Mạn Đà La Sao, quyển ba viết: “Ngài A Nan có mật hiệu là Tập Pháp Kim Cang”), Mật là Mật Tông. Trong danh hiệu của Mật Tông, tôn giả A Nan có hiệu là Tập Pháp Kim Cang. “Thử hựu hiển A Nan chi Bổn, cái Kim Cang tức Phật dã” (điều này lại hiển thị Bổn của A Nan, vì Kim Cang chính là Phật). Mật Tông gọi Kim Cang là Phật, [A Nan] đã thành Phật. “Cố tri A Nan hộ trì Phật pháp thị kỳ bổn nguyện” (do vậy, A Nan hộ trì Phật pháp chính là bổn nguyện của Ngài). Trong lúc tu nhân, trong khi tu hành, Ngài đã phát nguyện hộ trì Phật pháp, hết sức yêu mến Phật pháp. Điều này có mối quan hệ với tập khí đời đời kiếp kiếp trong quá khứ. “Hiện tắc thị hiện vi Phật thị giả” (nay thì thị hiện làm thị giả của đức Phật), lần này, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên thế gian, Ngài đến thị hiện làm thị giả của đức Phật. “Tục Phật huệ mạng, kế vãng khai lai, cố ư bổn kinh đương cơ” (tiếp nối huệ mạng của Phật, tiếp nối quá khứ dẫn đến tương lai. Do vậy, trong kinh này, Ngài là đương cơ), điều này chỉ rõ ngài A Nan và Tịnh Tông có duyên hết sức sâu đậm. Đức Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ, Ngài là người khải thỉnh đầu tiên. Thấy đức Phật phóng quang, hiện tướng lành, Ngài liền thay mặt đại chúng hướng về đức Phật thỉnh pháp, khiến cho đức Phật nói ra pháp môn này. “Nãi năng thiện tự tư duy, phát thử diệu vấn” (bèn có thể tự khéo tư duy, nêu ra câu hỏi hay khéo này). Khá nhiều kinh giáo đều do có người khải thỉnh rồi đức Phật mới nói. [Những kinh] không có ai khải thỉnh, mà đức Phật tự nói, rất ít, không nhiều lắm, nhưng đức Phật Thuyết A Di Đà Kinh là không có ai hỏi mà tự nói, không có ai khải thỉnh. Không có ai khải thỉnh mà đức Phật cũng nói là do thấy duyên của chúng sanh đã chín muồi, đức Phật bèn tuyên bố pháp môn ấy, giảng giải cùng mọi người. Mọi người có thể tin, có thể hiểu, có thể hành, có thể chứng, đó gọi là “duyên của chúng sanh chín muồi”. Tuy chẳng có ai khải thỉnh, đức Phật cũng nói ra. Kinh như vậy, đức Thế Tôn trong bốn mươi chín năm giảng kinh thuyết pháp có nói, nhưng không nhiều lắm.

      “Sắc thân chư căn, duyệt dự thanh tịnh” (Các căn nơi sắc thân, vui sướng thanh tịnh). Trong hai câu kinh văn này, chữ “chư căn” chỉ sắc tướng, tức là thân thể chúng ta, năm căn nơi thân thể là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.“Duyệt dự” (悅豫) là vui sướng. “Thanh tịnh, Gia Tường Sớ viết: Quang hiển dã” (Thanh tịnh: Gia Tường Sớ giảng: “Sáng ngời, rõ rệt”), dùng “sáng ngời, rõ rệt” để giải thích thanh tịnh. “Hựu Bảo Tích kinh viết: Như Lai thân giả, tự tánh thanh triệt, hà dĩ cố? Như Lai cửu dĩ viễn ly nhất thiết phiền não chư cấu uế cố” (Kinh Bảo Tích lại chép: “Thân Như Lai tự tánh trong trẻo, vì cớ sao? Vì Như Lai từ lâu đã xa lìa hết thảy phiền não và các cấu uế”). Há có lẽ nào thân Phật chẳng thanh tịnh? Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng hoàn toàn đều đoạn hết; vì thế, thân tâm thanh tịnh. Trong kinh giáo thường tán thán chư Phật Như Lai là “Kim Cang bất hoại thân”. Kim Cang hình dung sự kiên cố, trong bất hoại còn có thanh tịnh. Trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta đọc thấy đức Phật nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, thân này là tướng hảo. Nói cách khác, thân mỗi người và thân Phật chẳng khác. Thân gì vậy? Thân hiện tiền, tức là cái thân hiện tại của chúng ta và thân Phật chẳng khác gì nhau. Nơi chúng ta đang sống và Tịnh Độ chẳng khác gì nhau. Trong Hệ Niệm Pháp Sự, thiền sư Trung Phong đã nói: “Thân ta chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là thân ta”. “Phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là phương này”, nói như vậy là đúng, chẳng hề nói sai. Vì sao? Vì các Ngài đã đoạn hết tập khí phiền não, nên thân tâm thanh tịnh hiện tiền. Nỗi phiền phức của chúng ta trong hiện thời là gì? Bị nhuốm bẩn: Thân bị tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê nhuốm bẩn, tâm bị tham, sân, si, mạn, nghi nhuốm bẩn, đạo lý là như thế đó. Nếu buông tham, sân, si, mạn, nghi trong tâm xuống, buông tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp nơi thân xuống, quý vị và Phật sẽ chẳng khác gì nhau. Thân Phật và thân chúng sanh không hai, không khác. Lời này là thật, chẳng giả.

      Lục đạo chúng sanh một thân lắm bệnh, bệnh do đâu mà có? Tham, sân, si, mạn, nghi là gốc bệnh của quý vị, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê là ngoại duyên khiến quý vị bị nhiễm bệnh. Mừng, giận, buồn, vui là nội duyên khiến quý vị bị nhiễm bệnh. Nhân duyên trọn đủ, quý vị bị bệnh, đạo lý là như thế đó. Rất khó đoạn cái nhân, đó là tập khí phiền não, chẳng dễ đoạn. Đoạn được, quý vị sẽ chứng quả! Nếu có thể đoạn hết duyên, đoạn duyên như thế nào? Đức Phật dạy chúng ta lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy; quý vị có thể chịu khổ, có thể trì giới, thân tâm thanh tịnh, sẽ được tự tại. Nếu nói: “Thật sự buông xuống ngũ dục, lục trần, buông thất tình ngũ dục xuống, con người đúng là chẳng có gì vui sướng, học Phật để làm cái quái gì?” Đức Phật đã nêu gương, học Phật là lìa khổ, được vui. Những gì là khổ? Thất tình ngũ dục là khổ, thân tâm quý vị chẳng khỏe mạnh, thân tâm bị nhiễm ô. Đức Phật dạy chúng ta toàn là những lẽ thật, chẳng giả tí nào, bản thân chúng ta phải biết, phải hiểu rõ. Vì thế, phải học thân Như Lai tự tánh trong trẻo, chúng ta phải học theo Phật xa lìa hết thảy phiền não. Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não, Vô Minh phiền não thảy đều buông xuống.

      “Như Lai thân giả, xuất quá thế gian, hà dĩ cố? Bất vị thế pháp chi sở nhiễm ô cố” (Thân Như Lai vượt trỗi thế gian, vì cớ nào? Chẳng bị nhiễm bẩn bởi pháp thế gian). Quý vị chẳng còn bị ô nhiễm bởi tất cả các pháp thế gian. Chẳng bị ô nhiễm thì có hai biện pháp:

1) Phương pháp nông cạn là chúng ta xa lìa, không tiếp xúc nó. Đó là biện pháp trị đằng ngọn, chẳng phải là trị tận gốc.

2) Nếu có Thiền Định sâu, chúng ta tu học bất cứ pháp môn nào cũng đắc tam-muội, từ ngay nơi tướng mà lìa tướng, xa lìa ở một mức độ càng sâu hơn. Chẳng có tâm xa lìa mà trong hết thảy các pháp, tự nhiên chẳng khởi tâm không động niệm, đó là thật sự lìa.

Nãi chí Như Lai thân giả, như tịnh kính trung vi diệu chi tượng, như tịnh thủy trung minh mãn chi nguyệt” (cho đến thân Như Lai như hình ảnh vi diệu trong gương trong sạch, như mặt trăng tròn sáng trong nước sạch). Đây là tỷ dụ, rất giống với hình ảnh được chiếu bởi tấm gương sạch làu, hình ảnh hiển hiện trong gương. Lại giống như trong nước sạch, nước ấy sạch sẽ, chẳng nổi sóng, trăng hiện bóng trong nước. “Tổng thượng dẫn chứng, kinh văn thích vi: Đương thời Thế Tôn, nhãn đẳng ngũ căn, đồng hiện hỷ dung” (Tổng hợp những điều vừa dẫn trên đây, có thể giải thích kinh văn như sau: Lúc ấy, đức Thế Tôn nơi năm căn như mắt v.v... đều hiện vẻ vui sướng), nói rõ vì sao đức Phật phóng quang? Vì sao hiện tướng hoan hỷ ấy? Hoan hỷ! “Tâm trung an lạc, diệu tướng thanh triệt” (Trong lòng an lạc, diệu tướng trong sáng, rạng ngời). Cổ nhân nói là “người gặp việc vui sướng, tinh thần sảng khoái”. Khi đức Phật hiện tướng ấy, chúng ta biết là do tâm Phật biểu hiện ra, những điều này đều thuộc về thị hiện, trong lòng an lạc, diệu tướng bèn trong sáng, rạng ngời. “Như kính trung ảnh, như thủy trung nguyệt” (như ảnh trong gương, như trăng trong nước), ảnh trong gương và bóng trăng trong nước bao hàm ý nghĩa sâu xa “bất tức, bất ly” (chẳng phải chính là, mà cũng chẳng phải là tách lìa), vừa không, vừa có. Có và Không chẳng hai!

      “Quang minh viên mãn, tịnh nhược vô hình, hòa duyệt hoan hỷ, thanh tịnh trang nghiêm” (quang minh viên mãn, trong sạch như không có hình chất, hoan hỷ, sung sướng, thanh tịnh trang nghiêm), đây là lý do vì sao đức Phật an lạc, vui sướng? “Tịnh Ảnh Sớ viết: Hỷ hữu nhị nghĩa” (Tịnh Ảnh Sớ nói: “Hỷ có hai nghĩa”), giải thích cho chúng ta biết đức Phật hoan hỷ là có hai ý nghĩa biểu thị pháp:

1) “Niệm Di Đà Phật sở thành hạnh đức khả khánh, cố hỷ” (nghĩ đến hạnh đức đã thành tựu của Phật Di Đà đáng vui mừng, nên hoan hỷ). Đây là Phật niệm Phật. Trong phần trước, ngài A Nan đã hỏi: “Nay đức Phật hoan hỷ, có lẽ nhất định là niệm Phật, niệm quá khứ hay vị lai Phật, hay niệm đức Phật ở phương khác trong hiện tại?” Ngài A Nan từng hỏi câu ấy. Vì thế, ở đây chỉ rõ: Niệm A Di Đà Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật nghĩ tới hạnh đức đã thành tựu của A Di Đà Phật đáng vui mừng nên hoan hỷ.

2) “Niệm chúng sanh đắc ích thời chí, cố hỷ” (Nghĩ chúng sanh đã đến lúc được lợi ích nên hoan hỷ). Duyên của chúng sanh với Tịnh Độ đã chín muồi, cũng có nghĩa là chúng sanh có thể tiếp nhận pháp môn này. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế giới này, nói theo thực tế, mục đích thật sự là để tuyên dương pháp môn này.

Ai đã nói lời ấy? Thiện Đạo đại sư vào thời Đường đã nói. Thiện Đạo đại sư là tổ sư đời thứ hai của Tịnh Độ Tông. Ở chỗ này, phải nói kèm thêm cho rõ với các đồng học. Tổ sư Tịnh Độ Tông chẳng phải là đời đời truyền cho nhau, chẳng phải là truyền thừa, mà là dân chủ. [Các vị tổ sư Tịnh Độ Tông] được mọi người công nhận, chọn lựa, chẳng phải là truyền thừa từng thế hệ một. Vào thời đại ấy, vị đại đức đó tu học, hộ trì Tịnh Độ Tông hữu lực nhất, có thành tựu nhất, người đời sau bèn chọn Ngài làm Tịnh Tông tổ sư, chẳng phải là truyền thừa. Do đó, Tịnh Tông đến hiện thời chỉ có mười ba đời. Quý vị thấy mỗi tông phái đều có mấy chục đời, tối thiểu cũng là bảy, tám mươi đời, Tịnh Tông mới là mười ba đời. Thời đại nào chẳng có người [phù hợp tiêu chuẩn] bèn chẳng chọn. Do đó, [tổ sư Tịnh Độ] là do dân chủ mà có, nhất định được mọi người công nhận. Không dễ dàng! Duyên thành tựu của chúng sanh đối với Tịnh Độ chẳng dễ dàng, lẽ nào đức Phật chẳng hoan hỷ? Vì sao? Thành tựu trong một đời.

      Vì lẽ đó, Thiện Đạo đại sư đã nói hai câu: “Chư Phật sở dĩ xuất thế, chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà”, nêu rõ vì sao chư Phật Như Lai xuất hiện trên thế gian? Xuất hiện trên thế gian vì chuyện gì? Vì chuyện này, giới thiệu pháp môn Tịnh Độ cùng mọi người, khuyên mọi người hãy chân tín, chân nguyện, thật sự niệm Phật, trong đời này quyết định được sanh về Tịnh Độ. Người chỉ cần vãng sanh Tịnh Độ bèn thành Phật, lời này là thật, chẳng giả! Vì sanh về thế giới Cực Lạc, dẫu phiền não chẳng đoạn một phẩm nào, hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Đồng Cư, đó là mức độ thấp nhất, sanh về thế giới Cực Lạc, đều được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát là thành Phật. Quý vị thấy Thiền Tông nói “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, đó là hạng người nào? Đó là A Duy Việt Trí Bồ Tát, kiến tánh thành Phật. Người ấy (người hạ hạ phẩm vãng sanh) có kiến tánh hay không? Chẳng kiến tánh! Cớ sao chẳng kiến tánh mà cũng thành Phật? Do Phật lực gia trì người ấy, nên thần thông và đạo lực liền bằng với minh tâm kiến tánh. Nói cách khác, người ấy có năng lực cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh. Chúng sanh có cảm, người ấy có ứng, đáng nên dùng thân Phật để độ, bèn có thể hiện thân Phật. Đây là điều chẳng thể nghĩ bàn của Tịnh Độ, chính là cái được gọi là “pháp khó tin” trong Tịnh Độ.

      Quý vị nói với kẻ bình phàm trong Giáo Hạ, họ sẽ lắc đầu, chẳng tin, há có đạo lý ấy! Tức là chẳng tin tưởng vào sự gia trì do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật, cho nên khó tin. Khó tin mà chúng ta có thể tin, nay chúng ta tin tưởng, dựa vào đâu?

1) Điều thứ nhất là thiện căn sâu dầy trong đời quá khứ. Điều này là khẳng định.

2) Điều thứ hai, nếu thiện căn chẳng đủ sâu dầy, trong một đời này, do huân tu kinh giáo Đại Thừa trong một thời gian dài, cũng có thể nâng cao thiện căn lên tới một mức độ nhất định. Điều này phải có duyên phận.

Bản thân tôi đối với Tịnh Tông thiện căn chẳng đủ sâu dầy. Nếu chẳng có sự huân tu bằng kinh giáo Đại Thừa trong nhiều năm ngần ấy, tôi vẫn chẳng tin tưởng, không dễ dàng! Thuở trẻ, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam dạy tôi Tịnh Độ, khuyên dạy tôi hãy nghiêm túc học tập, tôi chẳng dám chống trái thầy, nhưng chẳng làm theo. Đi theo con đường của ngài A Nan, chẳng nghiêm túc tu tập mà cứ học rộng nghe nhiều, hết sức ưa thích kinh giáo, nhất là đối với Hoa Nghiêm và Lăng Nghiêm. Tôi kể cùng chư vị đoạn lịch sử này.

      Tôi tin tưởng Tịnh Độ là nhờ Hoa Nghiêm và Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm là khóa trình chủ tu của tôi thuở trẻ. Tôi nhớ đã giảng bảy lần, nhưng trong bảy lần chỉ có hai lần giảng viên mãn, năm lần khác chẳng giảng viên mãn. Về sau, giảng kinh Hoa Nghiêm. Mười mấy năm sau, khi đã giảng kinh Hoa Nghiêm được một nửa, đột nhiên có một ngày nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền học pháp môn gì? Kinh Hoa Nghiêm vẫn chưa nói đến. Trong phần sau, lật đến phần sau của kinh điển, lật đến quyển ba mươi chín của Tứ Thập Hoa Nghiêm, trong đó có nói. Nguyên lai, Văn Thù và Phổ Hiền đều niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Lại chú tâm quan sát Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử là đệ tử nhập thất của Văn Thù Bồ Tát, là môn sinh đắc ý, là truyền nhân của Ngài, sở học và sở truyền chắc chắn vâng theo thầy, chẳng thể nào khác thầy được! Chú tâm xem kỹ phần năm mươi ba lần tham học, quả nhiên chẳng sai! Quý vị thấy: Vị thiện tri thức đầu tiên, người Hoa nói “điều gì được tiếp xúc đầu tiên sẽ là chủ yếu”, là tỳ-kheo Cát Tường Vân, Ngài tu pháp môn gì? Ban Châu tam-muội, chuyên tu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đối với vị thứ nhất, Trung Hoa và Ấn Độ đều có cùng cách nói “điều gì được tiếp xúc đầu tiên sẽ là chủ yếu”, có quan hệ lớn nhất. Vị cuối cùng trong năm mươi ba lần tham học là Phổ Hiền Bồ Tát, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, tôi mới hoảng nhiên đại ngộ: Thiện Tài đồng tử vốn là chuyên tu Tịnh Độ, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, thành tựu trong một đời. Trong ấy, năm mươi ba lần tham học là khóa trình tu học ắt cần phải có nhằm hoằng pháp và hộ pháp, chứ để cho chính mình thành tựu thì một môn là đủ rồi. “Hoằng hộ” (hoằng pháp và hộ pháp) thì hết thảy đều phải hiểu, hoằng hộ là gì? Thành tựu Hậu Đắc Trí, không gì chẳng biết.

      Khi nào, Ngài mới đi tham học? Đã đạt được Căn Bản Trí. Trong hội Văn Thù, Ngài đắc Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là gì? Kinh Bát Nhã nói “Bát Nhã vô tri”. Sau đó, tham học là “không gì chẳng biết”, chính là Hậu Đắc Trí. Hai thứ trí huệ viên mãn thì mới có thể nói đến chuyện hoằng hộ! Nhưng học Hậu Đắc Trí thì nhất định phải là đã đạt Căn Bản Trí; chưa đạt được Căn Bản, lấy đâu ra Hậu Đắc? Giống như trồng cây, Hậu Đắc Trí là cành lá. Chẳng có căn bản, lấy đâu ra cành lá? Khó khăn lớn nhất của người hiện thời là chẳng có căn bản mà đã muốn làm chuyện cành lá; do đó, toàn bộ cành lá đều thất bại. Nói theo Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” là Căn Bản Trí, “pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là Hậu Đắc Trí, không gì chẳng biết. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đã nói rất rõ ràng, rất minh bạch, người biết học phải y giáo phụng hành. Vì vậy, khi chưa thành tựu Căn Bản Trí, sở học của chúng ta thảy đều vì cầu Căn Bản Trí. Trong giai đoạn ấy, nhất định là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Thâm nhập một môn thì quý vị mới có thể đắc Định, trong Phật pháp gọi là tam-muội. Sau khi thành tựu tam-muội, trí huệ liền khai. Trí huệ ấy là Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là gì? Trong kinh này, chúng ta nói “thanh tịnh, bình đẳng, giác” là Căn Bản Trí. Cả ba điều ấy quý vị đều đạt được, nên quý vị học Hậu Đắc Trí rất mau chóng, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ toàn bộ. Khi ấy, học tập vô cùng nhanh chóng, quý vị chẳng có chướng ngại. Phiền Não Chướng chẳng có, mà Sở Tri Chướng cũng chẳng có.

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp: “Quang nhan nguy nguy”, “Quang” () là quang minh, “nhan” () là dung nhan. Vô Lượng Thọ Kinh Tiên Chú là tác phẩm [chú giải kinh Vô Lượng Thọ] của cư sĩ Đinh Phước Bảo [đã viết]: “Phật chi nhan hữu quang” [nghĩa là] khuôn mặt tỏa ánh sáng, nên gọi là “quang nhan”. “Nguy nguy, cao đại tôn thắng chi mạo” (vòi vọi là diện mạo cao, lớn, tôn quý, thù thắng). “Gia Tường Sớ viết: Nguy nguy ngôn đức thịnh, cao hiển” (Chữ “vòi vọi” ý nói đức nhiều, cao cả, rõ rệt). Phật là bậc đại đức. Người hiện thời nói là đức Phật phong độ, dáng vẻ rạng rỡ, đều nhằm nói tới ý nghĩa “đức thù thắng, cao cả, rạng rỡ” từ trong nội tâm phát ra. Người hiện thời chẳng có [phong thái ấy], nhưng họ dùng cách hóa trang, hoàn toàn là bề ngoài. Đặc biệt khi lên sân khấu biểu diễn, nhất định phải hóa trang, khiến cho họ trước ống kính đều là “quang nhan nguy nguy”, cũng có tình hình ấy. Vì thế, lên sâu khấu luôn có chuyên viên hóa trang, có người chuyên nghiệp giúp quý vị, còn ở đây là tự nhiên. “Tổng biểu Phật chi đức dung” (Nói chung, câu này diễn tả vẻ mặt của Phật viên mãn các đức), đức ở bên trong, dung mạo ở bên ngoài. “Hiển diệu quang minh, siêu ư nhất thiết” (rạng ngời quang minh hơn hẳn hết thảy), “hết thảy” là nói các vị Bồ Tát từ Đẳng Giác trở xuống, không ai có thể sánh bằng Phật. “Hiển” () là rõ rệt, “diệu” (: chiếu sáng) cũng là như trong phần trước đã nói “mấy trăm ngàn biến hóa”, có ý nghĩa này. Trí huệ và đức năng của Phật đều từ tướng hảo mà thấu lộ, vượt trỗi hết thảy, Bồ Tát đều chẳng thể sánh bằng. Thanh Văn, Duyên Giác, chư thiên, nhân dân đương nhiên càng chẳng sánh bằng.

      Đối với những điều được nói trong kinh, chúng ta ắt cần phải biết, những gì Phật có, chúng ta hoàn toàn đều có, nghe xong cũng chẳng cần phải hâm mộ, chúng ta chẳng kém Phật mảy may nào! Vì sao hiện thời chẳng hiển lộ? Phải biết: Vì chúng ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc. Nói cách khác, nếu chúng ta có thể buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, hiện tướng ấy bèn hiện tiền. Chúng ta thật sự muốn, nay đang thuộc địa vị phàm phu, thật sự mong muốn, mong mỏi trí huệ và đức tướng đều có thể viên mãn như Phật, hãy nghiêm túc thật sự thực hiện. Nghiêm túc thật sự thực hiện thì chẳng thể quên Tam Học Giới, Định, Huệ. Thứ tự nhất định là nhân Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ. Nếu nghĩ ta chẳng cần giới luật, thứ này quá phiền phức, ta thực hiện từ Định và Huệ, có được hay không? Chẳng được! Quý vị chẳng đắc Định, chẳng thể khai Huệ. Mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều đi theo con đường này mà thành tựu. Chúng ta chẳng noi theo đường cũ, tự mình mong khai sáng một con đường mới, phiền phức to lớn! Quý vị chỉ nên đi theo đường xưa, đường xưa chỉ có một lối, tự mình muốn khai sáng con đường mới, người hiện thời mong sáng tạo, càng sáng tạo càng nát be nát bét. Đúng là “chẳng nghe lời người già, chịu thua thiệt trước mắt”. Những người già trong nhiều đời, nhiều thế hệ đều đi theo con đường xưa cũ này, quý vị ngỡ là hiện thời khoa học phát triển, phải sáng tạo cái mới, quý vị cứ làm thử xem! Chớ nên không biết điều này, chẳng thể không tôn trọng tổ tiên, chẳng tôn trọng người trước. Nếu có mảy may ý nghĩ ngạo mạn nào, ta sống trong thế kỷ hai mươi mốt, là thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, lẽ nào đi theo họ? Quý vị không đi theo họ, con đường của quý vị là tam đồ, khẳng định là ở trong tam đồ, chúng ta chớ nên không biết điều này! Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.

 

Tập 140

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm sáu mươi hai, dòng thứ tư.

      “Bảo sát trang nghiêm, tập tự Tống dịch. Thượng hữu diện sắc viên mãn tứ tự” (“Bảo sát trang nghiêm”: Câu này được hội tập từ bản Tống dịch, phía trước câu này có bốn chữ “sắc mặt viên mãn”). Câu kinh văn này đọc như sau: “Diện sắc viên mãn, bảo sát trang nghiêm”. “Biểu Phật diện dung sở phóng diệu quang minh trung, ánh hiện thập phương Phật độ chi trang nghiêm bảo sát” (ý nói: Trong quang minh vi diệu phóng ra từ khuôn mặt đức Phật, hiện bóng cõi nước báu trang nghiêm của mười phương cõi Phật).

Tiếp đó là: “Sát giả, Pháp Hoa Văn Cú Ký nhị” (Sát: Theo quyển hai sách Pháp Hoa Văn Cú Ký), đây là cuốn thứ hai, “viết: Thử vân Điền” (giảng: “Cõi này nói là Điền”). “Thử” là Trung Hoa, chữ Sát () được dịch sang nghĩa tiếng Hán là Điền Địa (田地). “Tức nhất Phật sở vương thổ dã. Cố tri Sát tức Phật độ, Phật quốc chi nghĩa” (tức là vương thổ của một đức Phật. Vì thế, Sát có nghĩa là cõi Phật hoặc nước Phật). Chữ Bảo Sát (寶剎) chỉ một cõi nước Phật. Nói theo cách hiện thời, sẽ là khu vực dạy học của đức Phật, chúng ta càng dễ hiểu. Do đó, Sát có nghĩa là Sát Độ (ksetra). Vào thời cổ, tại Trung Hoa, người ta dịch chữ này là Điền Địa. Thuở đức Thế Tôn tại thế, giáo học, Ngài chẳng dựng đạo tràng. Nói theo hiện thời, Ngài và Tăng đoàn sống theo phương thức du mục, không ở một nơi cố định mà di chuyển khắp nơi. Ở đâu có duyên bèn đến đó. Đức Phật vô cùng tự tại, cũng chẳng có bất cứ điều kiện gì. Người nào thành tâm thành ý đến khải thỉnh, Ngài đều chấp thuận, nhận lời mời. Vì các Ngài đều trụ trong núi, rừng, ven sông, đêm nghỉ dưới cội cây, nên chẳng cần nơi chốn riêng biệt, bất luận chỗ nào cũng đều được. Đó là phương thức giáo học của đức Thế Tôn trong thuở ấy. Chúng tôi cảm thấy phương thức này hết sức tự tại, chẳng phiền nhiễu người khác chút nào! Người lễ thỉnh rất tự tại, chẳng có bất cứ gánh nặng gì. Khi đức Phật nhận lời mời cũng tự tại. Chúng ta nói là ứng xử với các Ngài cũng rất tự tại, chẳng làm phiền người khác. Đây là nguyên tắc giáo học cơ bản của đức Phật, đức Phật chẳng khiến cho người nào khởi phiền não. Vì thế, nói đến điền địa thì điền địa chính là chỗ Ngài giảng kinh, thuyết pháp, chẳng cần bất cứ dụng cụ gia đình nào! Đức Phật trải một chút cỏ tươi rồi ngồi trên đó, các học trò cũng là như thế, ngồi trên cỏ vây quanh bốn phía đức Phật. Chẳng như hiện thời có giảng đường, có bàn ghế, có lắm thiết bị như vậy, lắm thứ bắt buộc phải có, thời ấy chẳng có. Vì thế, chúng ta liễu giải trạng huống khi ấy. Đó chính là ý nghĩa của chữ Sát.

      “Bảo sát” (寶剎): Bảo () là hình dung sự giáo học và thuyết pháp của đức Phật, nên gọi là Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. Tam Bảo trọn đủ, ba thứ này đều hết sức khó có. Phật là thầy, là người có thể thuyết pháp, Tăng là học trò, bao gồm thính chúng tại gia. Ý nghĩa gốc của chữ Tăng là đoàn thể. Bốn người trở lên, cùng học tập một chỗ thì gọi là Tăng Chúng, bất luận tại gia hay xuất gia, chư vị nhất định phải biết điều này. Do vậy, Tăng đoàn là đoàn thể học tập giáo pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, nên gọi là Tăng đoàn. Không nhất định là tại gia hay xuất gia, nam chúng hay nữ chúng đều gọi là Tăng đoàn. Nếu gọi là tỳ-kheo Tăng đoàn thì khác, nhất định phải là nói về xuất gia nam chúng. Không nói cố định thì tại gia hay xuất gia đều gọi là Tăng đoàn. Điều kiện nhất định của một Tăng đoàn là trì giới, nhất định là Lục Hòa. Nếu chẳng trì giới, chẳng có Lục Hòa, chẳng tính là Tăng đoàn, giống như hiện thời đạo tràng quy mô to đến mấy, đều chẳng thể gọi là Tăng đoàn. Đối với hàm nghĩa của những danh từ thuật ngữ trong Phật môn, chúng ta phải nhận biết chánh xác!

      Nay đức Phật muốn giới thiệu cùng mọi người Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, nên Ngài đặc biệt hoan hỷ. Trong phần trước, chúng ta đã thấy Ngài vô cùng hoan hỷ. Hoan hỷ là do cơ duyên chín muồi, vô lượng chúng sanh sẽ do lần giảng diễn này mà đạt đến lợi ích thù thắng khôn sánh, trong một đời này có thể vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly mười pháp giới. Lại còn đúng như Mật Tông đã nói “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân này), điều này chẳng giả tí nào! Trong phần trước, chúng ta đã đọc rất nhiều. Dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, sẽ như nguyện hai mươi đã nói: “Giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát). Tiêu chuẩn của A Duy Việt Trí Bồ Tát, tiêu chuẩn thấp nhất, chính là như Thiền Tông Trung Hoa đã nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, tiêu chuẩn ấy! Vì thế, A Duy Việt Trí Bồ Tát vượt trỗi mười pháp giới. Ngài ở nơi đâu? Trụ trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm của Phật. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm của Phật cũng là cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chính mình, chư vị phải biết điều này. Đức Phật có bốn cõi, mỗi người chúng ta đều có bốn cõi. Bốn cõi hiển hiện như thế nào? Đều do ý niệm của chính mình hiển hiện, nói cách này mọi người sẽ dễ hiểu. Kinh Phật có nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, cũng có nghĩa là bốn cõi sanh từ tâm tưởng. Trong tâm quý vị có Vô Minh phiền não, có Trần Sa phiền não, có Kiến Tư phiền não, tâm quý vị có ba thứ phiền não ấy, cõi Phàm Thánh Đồng Cư trong tự tánh của quý vị liền hiện tiền. Như quả địa cầu hiện thời là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, khởi tâm động niệm, ba loại phiền não ấy thảy đều trọn đủ. Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng có người rất hạnh phúc, rất sung sướng, có người rất đau khổ, chịu tội, do nguyên nhân nào? Mỗi người có nghiệp lực khác nhau. Người tâm thiện, hành vi thiện, ở trong cõi Đồng Cư bèn có hạnh phúc, mỹ mãn, sung sướng, cảnh giới ấy hiện tiền. Nếu tâm hạnh người ấy chẳng lành, tiêu chuẩn thiện là Thập Thiện Nghiệp Đạo, [do tâm hạnh của người ấy] trái nghịch Thập Thiện Nghiệp Đạo, sẽ hiện thành cõi nước bất thiện, có lắm nỗi đau khổ, như kinh đã nói “tám nỗi khổ xen nhau nung nấu”, có hiện tượng ấy xuất hiện. Nếu nghiêm trọng thì trong cõi Đồng Cư sẽ hiện gì? Hiện ra ba ác đạo là ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục.

      Chẳng phải do điều gì khác mà có, mà do tự tâm hiện ra. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói “duy thức sở biến”, Thức là phân biệt, chấp trước. Từ phân biệt, chấp trước của quý vị mà biến hiện cảnh giới ấy, cho nên đạo lý “cảnh chuyển theo tâm” là ở chỗ này. Chúng ta liễu giải đạo lý này, biết chân tướng sự thật này, đối với lời Phật dạy, chẳng hoài nghi mảy may. Vì thế, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng chẳng oán trời hờn người, biết là gì? Đúng là tự làm tự chịu, chẳng liên quan đến ai khác. Bởi lẽ, nhân quả cá nhân do chính mình gánh vác. Nếu quý vị oán người khác, sẽ là tội càng thêm tội, phiền phức có thể to lớn, hứng chịu khổ báo chẳng hết. Vì thế, phải hiểu rõ. Như thế nào thì sẽ có thể thoát ly biển khổ, thoát khổ, thoát nghèo? Phật pháp dạy chúng ta lìa khổ, được vui. Lìa khổ là lìa thoát nghèo khổ, lìa thoát bệnh khổ, đạt được an lạc, quý vị đoạn ác tu thiện. Quý vị đoạn hết Thập Ác, nghiêm túc nỗ lực tu Thập Thiện, mạng vận sẽ chuyển biến, quả báo cũng chuyển biến. Phật pháp nói mạng vận, nhưng mạng vận không phải là nhất định, nó biến đổi theo ý niệm. Một niệm thiện, cảnh giới thiện quả nhân thiên bèn hiện tiền. Một niệm ác, cảnh giới ba ác đạo liền hiện tiền. Thiên biến vạn hóa, chẳng nhất định! Hiện thời, cả thế giới động loạn, tai biến dị thường trên địa cầu toàn thể thế giới đều có. Do nguyên nhân nào? Các đồng học học Phật đều biết, do tâm hạnh chẳng lành của chúng sanh sống trên địa cầu cảm vời, chứ chẳng do điều gì khác! Nếu chúng ta hỏi, khi nào xã hội sẽ có thể khôi phục hòa hài, người Hoa gọi chuyện đó là “thiên hạ thái bình”, khi nào sẽ có thể khôi phục? Khi nào hoàn cảnh vật chất trên địa cầu sẽ khôi phục bình thường? Các khoa học gia cho biết: Năm nay rất bất thường, tai nạn nhiều, mùa Đông lại còn đặc biệt lạnh, mùa Hạ đặc biệt nóng, thời gian hai mùa Xuân và Thu rất ngắn. Xuân, Thu vốn đều là ba tháng, có thể là mùa Xuân chỉ có một tháng rưỡi, mùa Thu cũng chỉ có một tháng rưỡi. Thời gian Đông và Hạ rất dài, vốn cũng là ba tháng, có thể [bị kéo dài] từ bốn tháng đến năm tháng, bất bình thường! Vì sao phát sanh tình hình này? Do ý niệm của chúng ta sai trái. Hoàn cảnh là thức biến, Thức là ý niệm. Ý niệm của chúng ta chẳng lành, nên phải chịu tội nhiều hơn. Mùa Đông đặc biệt lạnh, quý vị thấy bốn năm tháng lạnh cóng, chịu tội nhiều! Mùa Hạ đặc biệt nóng, thời gian Xuân và Thu rút ngắn, chẳng phải là tự nhiên, do con người gây ra!

      Kinh Phật nói kiểu này, hết sức khó có. Hiện thời, các nhà Lượng Tử Lực Học đã chứng minh, họ chứng minh như thế nào? Họ chứng minh hiện tượng vật chất là giả, hoàn cảnh [cư trụ] của chúng ta là hiện tượng vật chất. Còn có nhà khoa học nói: Về căn bản, thế gian này chẳng có vật chất tồn tại, vậy thì chân tướng của vật chất là gì? Họ nói vật chất là huyễn tướng do ý niệm tích lũy liên tục sanh ra. Chúng ta thật sự hiểu đạo lý này. Quý vị thấy đức Phật đã nói từ ba ngàn năm trước, đến gần đây, gần đây, các nhà khoa học mới phát hiện, có cùng ý nghĩa như đức Phật nói, nhưng ngôn ngữ hơi bất đồng, ý nghĩa hoàn toàn giống như nhau, chứng minh những điều kinh điển đã nói là đúng, trong kinh điển có khoa học cao cấp. Những thông tin ấy đem lại tin tức tốt đẹp cho chúng ta: Chúng ta có năng lực khôi phục trật tự xã hội, khôi phục địa cầu bình thường, chỉ cần biến đổi ý niệm là được rồi. Đối với khởi tâm động niệm, tổ tiên đã nói luân lý, đạo đức, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, đơn giản lắm. Đơn giản thì quý vị mới có thể ghi nhớ. Đơn giản thì lưu truyền ức vạn năm chẳng bị sai, cương lãnh trọng yếu là mấy chữ như vậy đó. Chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực thực hiện: “Phụ tử hữu thân” (cha con có tình thân), thật sự làm được niềm thân ái ấy, tức là hiếu đạo. Giáo học của thánh hiền không gì chẳng đặt vững căn cội nơi chữ Hiếu. Giáo học của thánh hiền là cội gốc to lớn. Hiếu là nói tới điều gì? Quý vị nhìn vào chữ Hán. Chữ Hán là phù hiệu trí huệ, chữ Hiếu () biểu thị ý nghĩa gì? Nửa phần trên là chữ Lão (), nửa phần dưới là chữ Tử (), [hai phần ấy] hợp thành [chữ Hiếu], chúng ta có thể thấu hiểu ý nghĩa ấy. Thế hệ trước và thế hệ sau cùng một Thể, chẳng thể tách rời. Trên đời trước còn có đời trước nữa, sau đời sau còn có đời sau nữa; ý nghĩa này đã được bao hàm trong ấy. Lão Tử nói: “Thiên địa và ta cùng gốc, vạn vật và ta cùng một Thể”, chẳng phải là ý nghĩa này ư? Người Hoa nói đến Hiếu, phát minh chữ ấy trước khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc. Trung Quốc có năm ngàn năm văn hóa, Phật giáo mới truyền đến Trung Quốc mới hai ngàn năm. Trước khi Phật giáo truyền đến, Trung Quốc đã có ba ngàn năm văn hóa, nói tới căn cội này: Căn cội hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy, chẳng hai, chẳng khác với những điều kinh Đại Thừa đã dạy.

      Kinh giáo Đại Thừa giảng rõ ràng hơn. Trong Bồ Tát Giới Kinh có nói: “Hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta”. Đấy là nói về quan hệ Ngũ Luân. Trong Phật pháp có nói: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Những lời ấy đều do đức Phật nói. Vì vậy, giáo dục truyền thống Trung Quốc vun quén căn bản nơi “phụ tử hữu thân”, còn giáo học Phật pháp đặt vững căn bản nơi “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Mục đích giáo dục và giáo học của đức Phật ở chỗ nào? Nay quý vị đang mê mất tự tánh, quý vị vốn là Phật, nay đã mê, biến thành lục đạo phàm phu, mục tiêu chung cực của đức Phật trong việc dạy bảo chúng ta là muốn khiến cho chúng ta chuyển phàm thành thánh, trở về vị Phật vốn sẵn có thì sự giáo dục của đức Phật bèn viên mãn. Thành Phật có khó hay không? Sau khi quý vị đã hiểu rõ nguyên lý được giảng trong kinh, sẽ biết là chẳng khó chút nào, buông xuống mà thôi! Buông Kiến Tư phiền não xuống, bèn thành A La Hán, buông Trần Sa phiền não xuống, sẽ là Bồ Tát, buông vô minh phiền não xuống, quý vị bèn thành Phật, trở về tự tánh. Do vậy, tu học Phật pháp, nói tới công phu tu hành thật sự thì là gì? Từ đầu tới cuối là buông xuống mà thôi! Vì sao bảo quý vị buông xuống? “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”, chẳng có gì là thật. Nếu là thật, đức Phật sẽ chẳng bảo chúng ta buông xuống. Bảo quý vị buông xuống vì tất cả đều là hư vọng. Quý vị buông những thứ hư vọng xuống, chân thật liền hiện tiền, chân thật là gì? Phật tánh. “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể” như Hoàn Nguyên Quán đã nói bèn hiện tiền, buông vọng xuống, Chân liền hiện tiền, đó gọi là “chứng Chân”. Trong kinh, đức Phật đã giảng vấn đề này, giảng về nguyên khởi của vũ trụ, giảng chánh báo do đâu mà có. Chánh báo là gì? Chính mình, chính bản thân ta, ta do đâu mà có.

      Kinh Đại Thừa nói rất rõ ràng, rốt cuộc thân thể của ta là như thế nào? Nhục thân bao gồm xương, máu, lông trên da, lông tơ, tóc, đều thuộc về chánh báo. Đó là hiện tượng vật chất. Vật chất và tinh thần đồng thời phát sanh, vì sao? Trong tự tánh vốn trọn đủ. Huệ Năng đại sư kiến tánh đã bảo: “Nào ngờ tự tánh bổn tự trọn đủ”, trọn đủ những gì? Trọn đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng thần thông, vô lượng tướng hảo, hết thảy đều là vô lượng, chẳng khiếm khuyết mảy may! Vì sao nói là vô lượng? Thật sự là vô lượng. Các khoa học gia hiện thời có tính toán, đáng tiếc là tôi chẳng ghi chép những con số ấy, sau này, tôi tìm người giỏi toán viết những con số ấy ra. Trên thân người chúng ta, họ biết trên thân người có bao nhiêu tế bào. Những tế bào ấy phân tích ra thành bao nhiêu phân tử, lại phân tích ra thành bao nhiêu nguyên tử, [sẽ biết] trên thân có bao nhiêu nguyên tử, bao nhiêu lạp tử. Nay đã phân tích đến lượng tử, trên thân này có bao nhiêu lượng tử. Những lượng tử nhỏ như vậy vẫn là Ngũ Uẩn như đức Phật đã nói. Đức Phật giảng rất hay, lớn đến mức như vũ trụ, nhỏ đến mức như lượng tử, đều chẳng thể vượt ngoài Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn là gì? Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần. Thọ () là gì? Nó có năng lực cảm thụ, tiếp nhận. Nó có thể thấy, có thể nghe, có thể tiếp xúc bên ngoài. Nó có Tưởng, có Hành, Hành () là gì? Hành là như trong phần trước của kinh đã nói “mấy trăm ngàn thứ biến hóa”. Đó là Hành, mấy trăm ngàn thứ biến hóa là hình dung nó có thể biến hóa. Nó có Thức, nay chúng ta gọi Thức là “tư tấn” (資訊), tức tin tức. Có bao nhiêu tin tức? Trong một tiểu quang tử có tin tức trọn khắp pháp giới hư không giới, tất cả tin tức đều ở trong đó, chẳng sót một điều nào. Vì vậy, trong Phật pháp có khoa học bậc cao.

      Có người hỏi tôi một câu hỏi khó: Con giun, tức là một loại trùng bò nho nhỏ, quý vị dùng dao chặt nó làm đôi, nó liền biến thành hai con. Nó chẳng chết, cả hai con đều sống. Người ấy hỏi tôi chuyện gì? Người ấy nói thần thức là một, nay biến thành hai con giun, có phải là có hai thần thức? Đúng vậy! Có hai thần thức thì trong tương lai, chúng thành Phật chẳng phải là thành hai vị Phật ư? Giải đáp vấn đề này như thế nào? Chúng tôi giải đáp theo tướng. Nói theo sự, nói theo tướng, thân của nó tồn tại, tồn tại ở chỗ nào? Mỗi tiểu quang tử đều là một thể hoàn chỉnh. Nói cách khác, thần thức là vô lượng vô biên, chẳng sai! Một người có thể trở thành vô lượng, vô biên Phật, nói cho quý vị biết là thật, cũng chẳng giả! Nếu một người tạo tác tội nghiệp trong địa ngục, có phải là vô lượng vô biên thân hứng chịu vô lượng vô biên tội hay không? Đúng vậy! Trong kinh, đức Phật đã nói như thế. Vì sao chúng ta nói rất nhiều người đầu thai trong lục đạo, [đầu thai] là một thần thức, chẳng phải là hai ư? Nói cho thông suốt, hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Ý niệm của quý vị chấp trước thân này là chính mình, thân đã chết mà vẫn chẳng nỡ rời khỏi, giữ rịt lấy thân thể này, nên gọi là “thủ thi quỷ” (quỷ giữ thây), trọn chẳng biết thân lẫn tâm đều là giả. Chẳng phải là Quán Thế Âm Bồ Tát đã nói rất rõ ràng trong Tâm Kinh, mọi người hằng ngày đều niệm kinh ấy, vì sao hoàn toàn chẳng sử dụng được? Bồ Tát nói rất rõ ràng: “Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không” (khi hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi thấy năm uẩn đều không). Sau đấy, càng nói tỉ mỉ hơn: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị” (Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như vậy). Nếu quý vị tham cứu thấu triệt kinh văn ấy, vấn đề của quý vị sẽ được giải đáp. Chẳng còn nữa! Quý vị chẳng có vấn đề ấy! Bởi lẽ, nếu quý vị chấp trước, nó sẽ biến thành một. Nếu chẳng chấp trước, nó liền biến thành rất nhiều. Vì vậy, Phật, Bồ Tát có thể phân thành vô lượng vô biên thân. Địa ngục cũng là như thế, xác thực là phân thành vô lượng vô biên thân trong địa ngục để lãnh chịu vô biên hình phạt.

      Đến nay, kinh văn đã được học thuyết khoa học chứng minh, dễ hiểu hơn trước kia. Vì thế, đối với kinh văn sâu xa, uyên áo như thế này mà cổ nhân có thể thấu hiểu, chúng ta bội phục họ năm vóc sát đất. Hiện thời, nhờ các báo cáo của các nhà khoa học, chúng ta được đắc lực rất nhiều. Đem chúng so sánh với Phật học, chúng ta liễu giải Phật pháp càng rõ ràng hơn. Ở đây là nói đến nguồn cội của Bảo Sát (cõi báu). Mặt đức Phật phóng quang, trong quang là gì? Trong quang minh có vô lượng vô biên cõi Phật, quý vị thấy quang minh hiện bóng cõi báu trang nghiêm của mười phương cõi Phật. Nói cách khác, trong Phật quang hiện ra đạo tràng thuyết pháp giáo học của mười phương chư Phật. Bảo sát là đạo tràng, các Ngài hoạt động tại đó, giảng kinh, dạy học nơi đó. Người nào có thể thấy hiện tượng này? Pháp Thân Bồ Tát. Vì sao? Các Ngài chẳng có chướng ngại. Phật, Bồ Tát trong mười pháp giới vẫn chưa được, chẳng thấy, trừ phi Phật và các Ngài có duyên liền đặc biệt gia trì thì sẽ có thể thấy. Chẳng được Phật lực gia trì, sẽ chẳng thấy, nhưng Pháp Thân Bồ Tát không cần gia trì, bất cứ lúc nào cũng đều có thể thấy.

Tiếp đó là: “Tống dịch tục vân: Như thị công đức, đắc vị tằng hữu. Cái vị chiêu thị thập phương, Phật tương khai diễn đệ nhất hy hữu chi pháp, cố hiện thị tiền sở vị kiến chi thụy. Cố bổn kinh trung tục viết: Tùng tích dĩ lai, vị sở tằng kiến, hỷ đắc chiêm ngưỡng, sanh hy hữu tâm” (bản Tống dịch ghi thêm: Công đức như vậy là chưa từng có”. Ấy là vì tỏ rõ với mười phương: Đức Phật sẽ khai diễn pháp hy hữu bậc nhất. Vì vậy, đức Phật hiện tướng lành chưa từng bao giờ thấy như thế. Do đó, kinh này chép tiếp rằng: Từ xưa đến nay, chưa từng được thấy, mừng rằng mình được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu”). Mấy câu này cho biết, trong bản Tống dịch có hai câu như thế, tiếp theo đó, có tất cả bốn câu: “Diện sắc viên mãn, bảo sát trang nghiêm, như thị công đức, đắc vị tằng hữu” (Sắc mặt viên mãn, cõi báu trang nghiêm, công đức như thế là chưa từng có). Đó là kinh văn trong bản Tống dịch. “Chiêu thị thập phương”: Chiêu là chiêu minh (昭明: sáng tỏ) Thị () là thị hiện (示現), thị hiện rõ rệt cho mười phương chúng sanh được thấy nghe, bao hàm ý nghĩa: Nay Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ khai diễn pháp hy hữu bậc nhất. Chúng ta phải ghi nhớ câu này, phương pháp hy hữu bậc nhất là kinh Vô Lượng Thọ. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ có thể gọi là kinh bậc nhất [trong các kinh do] chư Phật đã nói. Lời này cũng chẳng phải do chúng tôi tùy tiện thốt ra. Thiện Đạo đại sư đã nói: “Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế” (sở dĩ chư Phật xuất hiện trong cõi đời), các Ngài đến hiện thân, thuyết pháp trong thế gian này, “duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải” (chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà), có nghĩa là Phật đến thế gian này để giáo hóa chúng sanh, độ thoát chúng sanh, giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, giúp chúng sanh lìa khổ, được vui, Ngài đã dùng phương pháp gì? Thứ nhất là dùng phương pháp này. Vô lượng pháp môn khác nhằm phụ trợ phương pháp này. Giống như một cội cây to, phương pháp này là cội rễ, ngàn kinh vạn luận là cành cây, thân cây, ngọn cây, lá cây, là những thứ đó, còn kinh này là căn bản.

Chúng ta cũng nghe các tổ sư đại đức bảo Hoa Nghiêm là căn bản của hết thảy các pháp. Chẳng sai! Chẳng sai tí nào cả! Kinh Hoa Nghiêm xác thực là căn bản, vì sao? Thích Ca Mâu Ni Phật minh tâm kiến tánh, sau khi kiến tánh, Ngài đã hoàn toàn nói ra cảnh giới đã thấy. Đó là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, há có sai! Đương nhiên [Hoa Nghiêm] là căn bản pháp luân. Hết thảy các pháp được nói trong bốn mươi chín năm đều là cành lá của Hoa Nghiêm, từ xưa các vị tổ sư đại đức đã công nhận điều này. Vậy thì vì sao kinh Vô Lượng Thọ lại biến thành bậc nhất? Chúng ta đọc kỹ kinh Hoa Nghiêm sẽ hiểu rõ. Kinh Hoa Nghiêm cho đến cuối cùng viên mãn như thế nào? Tự tu viên mãn, độ chúng viên mãn, viên mãn như thế nào? Cuối cùng, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Dẫn về Cực Lạc là dẫn về kinh Vô Lượng Thọ, Hoa Nghiêm đạt đến rốt ráo viên mãn là trở về Vô Lượng Thọ. Do vậy, kinh Vô Lượng Thọ liền biến thành căn bản của căn bản, chúng ta chớ nên không biết điều này, chớ nên không nhận thức rõ ràng! Nếu không, thì sao? Đã gặp pháp môn này vẫn nghĩ pháp môn khác khá lắm, chẳng trọn đủ tín tâm đối với pháp môn này. Tín tâm chẳng đủ, Phật pháp chẳng bị thiệt thòi, mà chính là quý vị bị thiệt thòi: Pháp hy hữu bậc nhất ở ngay trước mặt mà quý vị bỏ lỡ, đời sau vẫn bị luân hồi, vẫn phải sanh tử, quý vị sai lầm mất rồi! Vì thế, câu này có ý nghĩa sâu xa, quý vị phải thừa nhận bộ kinh này là pháp hy hữu bậc nhất.

       “Cố hiện thị tiền sở vị kiến chi thụy” (nên hiện tướng lành chưa từng thấy như trên đây): Đức Phật hiện tướng lành, “phóng quang hiện thụy” (phóng quang, hiện tướng lành), trong hết thảy các kinh, quý vị chẳng thấy Ngài toàn thân phóng quang. Vì thế, kinh này nói tiếp: “Tùng tích dĩ lai” (từ trước tới nay), đây là nói về tôn giả A Nan. Ngài A Nan là thị giả của đức Phật. Đức Phật giảng kinh, Ngài chưa hề vắng mặt buổi nào, trước nay, Ngài chưa thấy đức Phật hoan hỷ dường ấy, đức Phật hiện tướng thù thắng ngần ấy. Chúng ta phải ghi nhớ tướng được biến hiện này. Đức Phật chẳng khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, vì sao mỗi ngày hiện tướng khác nhau? Đức Phật vĩnh viễn trụ trong tự tánh. Sách Hoàn Nguyên Quán nói “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”, đó là trụ xứ của Phật, chẳng lìa tự tánh. Trong tự tánh, chẳng có phân biệt, chấp trước, chẳng có khởi tâm động niệm. Đức Phật thị hiện trong mười pháp giới, thị hiện trong tam đồ, cũng chẳng có khởi tâm động niệm. Hết thảy chúng sanh thấy Phật thị hiện, toàn là do nghiệp cảm của chúng sanh, nghiệp của chúng sanh niệm niệm khác nhau. Phàm phu chúng ta không biết, chúng ta biết thô niệm, nhưng chẳng biết tế niệm. Di Lặc Bồ Tát bảo: “Một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”. Chúng ta chẳng biết các niệm ấy, chúng là thật, chẳng giả! Nếu là người khảy ngón tay mau lẹ, trong một giây có thể khảy năm lần thì trong một giây có bao nhiêu niệm? Tính theo cách nói của Di Lặc Bồ Tát, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu. Một giây là một ngàn sáu trăm triệu, làm sao quý vị có thể biết được nổi? Niệm niệm đều khác nhau. Vì thế, kinh nói “mấy trăm ngàn thứ biến hóa”, lời ấy là thật, chẳng giả tí nào. Ngài nói toàn là chân tướng sự thật, toàn là cảnh giới Như Lai đích thân chứng đắc, chẳng phải là tùy thuận ý niệm của phàm phu chúng ta, mà là cảnh giới do Ngài đích thân chứng. Vì thế, ngài A Nan trông thấy, A Nan đại diện cho đại chúng dự hội, “hỷ đắc chiêm ngưỡng, sanh hy hữu tâm” (mừng được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu), khẳng định trong các đại chúng dự hội [cũng có một tâm trạng ấy].

       “Thử biểu A Nan tuy cửu thị Phật trắc, đản như tư thụy tượng, tiền sở vị kiến. Kim nhật hạnh năng chiêm thị khâm ngưỡng, kiến thử quang minh, tâm trung hoan hỷ, nãi khởi hy hữu nan tao chi tưởng” (Điều này cho thấy ngài A Nan tuy hầu bên cạnh Phật đã lâu, nhưng các tướng lành như thế ấy từ trước đến nay Ngài chưa từng được thấy. Ngày nay may mắn ngắm nhìn, khâm phục. Thấy quang minh này, trong tâm hoan hỷ, liền khởi lên ý tưởng hy hữu, khó gặp). Câu này ý nói lên cảm nhận của tôn giả A Nan vào lúc ấy, quá hy hữu, cơ hội thành Phật viên mãn trong một đời đã đến rồi! “Ư thị, A Nan tùng tòa nhi khởi, ca-sa bị thể, đản lộ hữu kiên, thử danh thiên đản hữu kiên, nãi tỳ-kheo trí kính chi cực” (Do vậy, A Nan liền từ chỗ ngồi đứng lên, kéo áo ca-sa đắp thân để lộ vai hữu, chuyện này được gọi là “trật áo vai phải”, đó chính là cách tỏ lòng cung kính cùng cực của tỳ-kheo). Đấy là sự lễ kính của hàng đệ tử xuất gia đối với đức Phật. “Thiên đản hữu kiên” (偏袒右肩: trật áo, lộ vai phải) là cách kính lễ nhất. Tấm y mà giới Phật giáo Trung Hoa đắp hiện thời được gọi là Ca Sa (Kāṣāya), quý vị thấy để lộ vai phải, vì sao phải lộ vai phải? Niệm niệm chẳng quên phụng sự thầy, đối trước thầy hành lễ. Thầy có chuyện gì muốn sai bảo quý vị làm, sẽ hết sức thuận tiện, tay phải ở ngoài [ca-sa], sẽ phục vụ rất nhanh nhẹn, có thể tiếp nhận, [hở vai áo phải nhằm biểu thị] niệm niệm chẳng quên phụng sự sư trưởng. Ở nhà thì hiếu thuận với cha mẹ, cũng là niệm niệm chẳng quên chuyện do cha mẹ đã giao phó, sẽ thực hiện rất nhanh, chớ nên lười nhác, biểu thị ý nghĩa này. Bình thường thì sao? Bình thường thì y ca-sa phủ kín hai vai. Hở vai bên phải là hành lễ. Quý vị thấy trong Tiểu Thừa, Nam Truyền Tiểu Thừa, họ quấn ca sa trên người, bước vào đại điện bèn lộ tay phải. Phật giáo truyền đến Trung Quốc, Trung Quốc thuộc khu vực ôn đới. Thuở Phật cư trụ tại Ấn Độ, Ấn Độ là xứ nhiệt đới, nên họ ăn mặc rất đơn giản, ba y là đủ rồi. Xứ nhiệt đới thì đến đêm, ba y coi như chăn đắp, ban ngày đều phủ lên thân. Khi làm lụng, chỉ dùng một tấm y, thường nói y năm điều là quần áo lao động. Y bảy điều là lễ phục thông thường, là lễ phục mặc thường xuyên. Từ chín điều trở lên cho đến hai mươi lăm điều là đại lễ phục. Tấm y hiện thời của chúng ta là hai mươi lăm điều, là đại lễ phục, khi hành lễ mới dùng. Đức Phật giảng kinh, chúng ta đến nghe kinh là đại lễ. Bởi lẽ, trong giảng đường, hoạt động Phật giáo là giảng học, chẳng có hoạt động nào khác. Đức Thế Tôn thăng tòa thuyết pháp, học trò cung kính đến nghe giảng, tất cả đều trật áo hở vai phải, đều mặc đại lễ phục.

       “Trường quỵ hiệp chưởng: Trường quỵ giả, song tất trước địa” (Quỳ thẳng chắp tay: Quỳ thẳng là hai gối đặt sát đất), có thể quỳ lâu dài. Khi hành lễ bái Phật, có lúc sử dụng hồ quỵ (胡跪). Hồ quỵ là chỉ có một chân đặt xuống đất, cũng là hành lễ, biểu thị đức Phật có sai phái gì, quý vị bèn đứng lên rất mau, đều là tâm thái ắt phải có để phụng sự bậc trưởng thượng, chẳng dám lười nhác, tán loạn, sử dụng theo ý nghĩa này. Trong trường quỵ cũng có hồ quỵ, một chân đặt sát đất, ở đây nói là hai gối đặt sát đất, cũng là trường quỵ. Trong trường quỵ có hai loại, chớ nên không biết. “Hiệp chưởng giả, hợp tả hữu lưỡng chưởng chi thập chỉ, cố hựu danh Hiệp Thập. Ấn Độ dĩ hiệp chưởng biểu kính lễ, biểu nhất tâm chuyên chú, cung kính chi nghi” (“Chắp tay” là khép mười ngón tay từ hai bàn tay trái và phải lại, nên lại gọi là “hiệp thập” (ép sát mười ngón tay lại). Ấn Độ dùng chắp tay để biểu thị sự kính lễ, biểu thị nhất tâm chuyên chú, là nghi lễ tỏ lộ sự cung kính). Mười đầu ngón tay biểu thị điều gì? Biểu thị tán loạn. Chúng ta có rất nhiều ý niệm, nghĩ Đông tưởng Tây. Khi cung kính bèn chắp hai tay lại, biểu thị chúng ta thu hồi sự tán loạn, nhất tâm chuyên chú, có ý nghĩa này. Vì thế, khi chắp tay, nhất định phải chắp sao cho các ngón thật khít nhau nhằm biểu thị nhất tâm. Có người chắp tay [mà các ngón tõe ra] như thế này, tức là không chuyên tâm, mà cũng chẳng cung kính, làm cho có mà thôi, chẳng có thành ý! Vì thế, khi thành ý, nhất định phải chắp lại thật khít, biểu thị thành ý. Điều này là lễ tiết nhỏ nhặt, nhưng lễ tiết vụn vặt chớ nên bỏ. Lễ tiết nhỏ nhặt cũng chẳng bỏ mất thì đại đức mới có thể thành tựu. Vì vậy, trong hiện thời, thành tựu đại đức rất khó khăn, vấn đề là vì đối với lễ tiết nho nhỏ đã tùy tiện, cứ ngỡ những chi tiết nhỏ nhặt cứ qua loa cũng được. Do đó, chẳng thể thành tựu đại đức.

       Chữ “Bạch” () là từ ngữ tôn kính. Đối với bề trên, đối với trưởng bối, như chúng ta thường thấy trong kinh chép là “bạch Phật ngôn” (bạch cùng đức Phật rằng), hiện thời nói là “báo cáo”. Bạch có nghĩa là báo cáo. “Biểu bạch dã. A Nan trường quỵ, hiệp chưởng, hướng Phật trần thuyết, kính phát sở vấn dã” (“Bạch” là thưa bày. A Nan quỳ dài, chắp tay, hướng về đức Phật tỏ bày, cung kính thốt lời thưa hỏi). Những chữ được nêu trên đây toàn là lễ tiết. Những lễ tiết ấy thường được vận dụng trong cuộc sống hằng ngày, là lễ tiết đối với tất cả các vị tôn trưởng. Đức Phật là thầy, cũng là trưởng bối. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có trọn đủ những lễ tiết, lễ phép hay không? Lễ tiết thật sự trọng yếu dường ấy ư? Trọng yếu! Vì sao? Tâm chân thành thanh tịnh của quý vị người khác nhìn chẳng ra, nhưng nó sẽ được bộc lộ qua các động tác. Chúng ta làm theo cách như vậy, đương nhiên là chính mình chân thành, biểu thị sự chân thành của chính mình, ngoài ra còn là giáo hóa chúng sanh. Đặc biệt là trong thời đại này, mọi người quên khuấy lễ kính, chúng ta bất luận ở nơi đâu, quý vị làm chuyện này sẽ là công đức, là tu công đức. Bất luận ở nơi chốn nào, quý vị thấy người khác, người khác là trưởng bối của chúng ta, hoặc tuổi tác cao hơn chúng ta, lớn hơn mười tuổi trở lên là trưởng huynh, lớn hơn hai mươi tuổi là bậc ngang vai vế với cha ta, chính mình là vãn bối, hoặc là [trông thấy người] cấp bậc cao hơn chúng ta, hễ trông thấy phải hành lễ, lễ thì phải cung kính. Lễ tiết trong Phật môn là khi xá chào phải khom mình chín mươi độ để hành lễ, điều này có tất yếu hay không? Có chứ! Quý vị thấy chúng tôi hễ nhìn thấy người khác bèn khom mình chín mươi độ để hành lễ, trong tâm quý vị bèn sanh lòng hoan hỷ. Người hiện thời chẳng có lễ tiết, thấy cha mẹ, người trên mà gật đầu thì kể ra cũng còn khá, [vì] có lúc, đầu họ cũng không thèm gật nữa kia! Nếu chẳng có lễ, thưa cùng chư vị, chẳng có tâm cung kính, vì sao? Điều gìn giữ trong lòng nhất định thấu lộ ra ngoài. Trong tâm quý vị thật sự thành kính, bên ngoài tự nhiên là lễ tiết như vậy, chẳng cần ai dạy. Quý vị rất cung kính một ai đó, trông thấy người ấy, đúng là sẽ [cư xử] khác hẳn.

Vì thế, người hiện thời bỏ sót lễ, cũng chẳng có ai dạy, nên tâm thành kính chẳng có, học thứ gì cũng đều học chẳng thành. Vì sao? Ấn Quang đại sư nói rất hay: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Quý vị chẳng có thành kính, làm sao đạt được? Dẫu là vị thầy giỏi đến mấy, hoặc bậc thánh hiền đến dạy quý vị, Phật, Bồ Tát đến dạy quý vị, quý vị đều chẳng đạt được lợi ích, vì sao? Thiếu tâm thành kính. Điều này cho thấy, chẳng phải là Phật, Bồ Tát không đến, mà là do Phật, Bồ Tát thấy quý vị chẳng có thành kính, có đến cũng vô dụng! Phật, Bồ Tát thật sự đến, sẽ giúp quý vị tạo nghiệp, Phật, Bồ Tát chẳng nỡ lòng nào! Vì sao? Không chân thành bất kính là tội, là lỗi, lẽ nào Phật, Bồ Tát giúp quý vị tạo tội lỗi? Vì vậy, các Ngài lánh xa, đó là lòng từ bi chân chánh, chẳng khiến cho chúng ta vì bất kính thánh hiền mà phạm tội lỗi, nên các Ngài tránh né. Quý vị thấy Phật, Bồ Tát vì chúng ta thị hiện là từ bi, mà tránh né chẳng đến vẫn là từ bi! Hiểu đạo lý này, chúng ta muốn cầu học, thật sự mong cho học nghiệp và đạo nghiệp của chính mình thành tựu thì thành tựu từ nơi đâu? Thành tựu từ tâm cung kính, điều này rất quan trọng. Bản thân tôi cầu học thuở trước là một thí dụ tốt. Chúng tôi chẳng có quan hệ gì với thầy, căn bản là chẳng quen biết. Nghe tiếng thầy được rất nhiều người cung kính, tán thán, chúng tôi biết đó là một vị thầy tốt nên được nhiều người tán dương như vậy, học đòi Mao Toại[4] tự tiến cử, viết thư gởi cho thầy. Chúng tôi là một gã nghèo túng, hèn mọn, mong học mà chẳng có duyên phận, viết một bức thư thỉnh cầu thầy chấp thuận cho chúng tôi được học bàng thính. Khi thầy dạy, cho phép chúng tôi được dự thính. Tôi cung kính viết lá thư ấy. Thầy nhận được thư bèn hẹn tôi gặp mặt, trực tiếp nói chuyện. Chúng tôi giữ lễ đối với thầy, xác thực là có biểu hiện, tuy chẳng phải là mười phần cung kính, nhưng phải là được bảy tám phần, chẳng giống các bạn học thông thường.

      Thầy không chỉ là chịu dạy, mà mỗi tuần còn dành cho tôi hai giờ, dạy tôi ở nhà thầy hai tiếng đồng hồ, chẳng thể tưởng tượng được! Một xu học phí cũng chẳng có! Nếu gặp người khác thì trong giờ lên lớp, anh đến nghe ké chẳng phải là đã được rồi hay sao? Đặc biệt dành ra thời gian, mỗi tuần dạy tôi hai giờ, giảng cho tôi một bộ khái luận triết học, chẳng theo sách giáo khoa. Nhân duyên học Phật của tôi do vậy mà có. Chủ đề trong khoa mục cuối cùng là triết học trong kinh Phật, thầy bảo tôi: “Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia vĩ đại nhất trên thế giới, kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học trên toàn thế giới, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người”, quét sạch mọi thứ hiểu lầm trong thời trẻ của tôi đối với Phật giáo. Vì chúng tôi vốn nghĩ Phật giáo là tôn giáo, là mê tín, chẳng có ý niệm muốn tiếp xúc. Khi thầy giới thiệu như thế, mới biết trong Phật pháp có đại học vấn, bèn sửa đổi quan niệm trong quá khứ, bắt đầu đến chùa miếu. Đến chùa miếu để làm gì? Tìm xem kinh sách. Thầy chỉ định những kinh điển nào mong chúng tôi sẽ đọc. Thuở ấy, kinh điển chẳng thể mua từ bên ngoài, chỉ trong chùa miếu mới có Đại Tạng Kinh, phải sao chép từ trong Đại Tạng Kinh ra. Thuở ấy, tôi còn sao chép mười mấy bộ. Đó là gì? Đó là chính mình thuở bé học được đôi chút tôn sư trọng đạo do cha mẹ dạy, sau này đạt được sự tiện nghi ấy, chẳng dễ dàng! Vì thế, thảy đều do từ lễ nghi cung kính mà được thầy hoan hỷ, chịu dạy tôi, chẳng cần đóng học phí, đặc biệt bỏ ra thời gian dạy học, duyên phận ấy hy hữu, khó gặp! Vì thế, cầu thiện tri thức thì phải đầy đủ điều kiện để cầu thiện tri thức, chớ nên không biết!

      Tiếp đó là lời hỏi của A Nan, A Nan mở miệng thưa: “Thế Tôn kim nhật nhập đại tịch định” (nay đức Thế Tôn nhập đại tịch định). Ở đây, cụ Niệm Tổ có giải thích: “Ly nhất thiết tán động, cứu cánh tịch tĩnh, vị chi đại tịch” (Lìa hết thảy tán động, tịch tĩnh rốt ráo thì gọi là “đại tịch”). Tiếp đó là nói: “Đại tịch định giả, Như Lai sở nhập chi Thiền Định” (Ðại tịch định là Thiền Định được đức Như Lai nhập). Trên thực tế, đại tịch định là gì? Là tự tánh vốn định. Khi kiến tánh, Huệ Năng đại sư đã nói, Ngài báo cáo [tâm đắc với Ngũ Tổ], câu thứ tư là: “Nào ngờ tự tánh vốn chẳng dao động”. Đó là đại tịch định, trở về tự tánh. Vì thế, lìa hết thảy tán động, Trần Sa phiền não là Tán, Kiến Tư phiền não là Động. Tịch tĩnh rốt ráo, cảnh giới ấy cao lắm. Chẳng có hai chữ “rốt ráo” thì tịch tĩnh là Bồ Tát, thêm vào hai chữ “rốt ráo” sẽ là Như Lai, cao hơn Bồ Tát, gọi là “đại tịch”. Vì thế, đại tịch định là môn Thiền Định do đức Như Lai đã nhập, là tự tánh vốn định. “Niết Bàn kinh tạp viết” (kinh Niết Bàn quyển thứ ba mươi chép), đức Phật nói, “Ngã ư thử gian Sa La song thụ, nhập đại tịch định. Đại tịch định giả, danh Đại Niết Bàn” (Ta ở rừng Sa La song thụ trong cõi này, nhập đại tịch định. Ðại tịch định có tên là Ðại Niết Bàn). Kinh Niết Bàn do đức Thế Tôn nói khi Ngài nhập diệt. Thích Ca Mâu Ni Phật rời khỏi thế gian này, người thế gian nói Thích Ca Mâu Ni Phật đã chết, Phật có sanh tử hay không? Thưa cùng chư vị, chẳng có! Phật chẳng có sanh tử; chúng ta có sanh tử hay không? Nói cho quý vị biết, chúng ta cũng không có sanh tử. Chúng ta sanh tử là thân có sanh tử, nhưng linh hồn chẳng có sanh tử, thật vậy, chẳng giả! Linh hồn hết sức tích cực trong khoảng thời gian và không gian này.

      Chúng ta xem quyển sách này, Khải Tát Quân Đoàn Đông Chinh Trung Quốc Chi Mê (bí ẩn về đoàn quân đông chinh Trung Quốc của Caesar). Chuyện này được phát hiện gần đây nhất, là chuyện từ hai ngàn một trăm năm trước, là thật, chẳng giả. Đại đế Khải Tát (Caesar) của đế quốc La Mã phái một đoàn quân hơn mười vạn người xâm lược Trung Quốc, quả thật đường sá xa xôi, đội quân đến mười mấy vạn người, theo báo cáo cho biết, kỵ binh là hai phần ba, bộ binh một phần ba. Một đội ngũ khổng lồ chẳng thể di chuyển quá nhanh. Nếu kỵ binh tiến trước, đằng sau bị lạc khỏi đội ngũ thì không được rồi! Ban đêm đóng quân nghỉ trong lều, đều ở cùng một chỗ. Một đoàn quân khổng lồ như vậy, đi từ La Mã đến Trung Quốc mất hơn một năm. Khi đi đến vùng Tân Cương hiện thời, đoàn quân ấy gần như đã có hai vạn người chết vì bệnh truyền nhiễm. Chúng ta biết họ rời khỏi La Mã, chẳng bổ sung thêm quân, nên số lính một mực giảm bớt, chẳng được bổ sung. Ở Trung Quốc, họ cùng quân Trung Quốc giao chiến tại Tân Cương. Quân đội La Mã được huấn luyện kỹ càng, thuở ấy họ vô cùng nổi tiếng nhất Âu Châu là quân đội rất hung hãn. Vì thế, họ cũng rất kiêu ngạo, coi thường người Hoa, người Hoa nhỏ con hơn họ, vóc dáng lại lùn tịt. Nhưng người Hoa có mưu mẹo, dùng trí để thắng. Đánh một trận đầu với người Hoa, bị chết hơn chín ngàn người. Sau khi giao chiến với Trung Quốc, chẳng dám khinh địch, niềm tin sẽ chiếm lãnh Trung Quốc cũng mất đi, chỉ sợ chẳng có năng lực chiếm đóng Trung Quốc, nhưng mệnh lệnh của đại đế Caesar chẳng thể trái nghịch, cứ tiếp tục tiến về hướng Đông. Đi đến hành lang Hà Tây, tức là đến vùng Cam Túc, quân đội đã mất đi hai phần ba, tử vong vì giao tranh trên đường đi, hoặc tử vong khi hành quân, hoặc tử vong vì bị tai nạn bất ngờ. Đặt biệt là chẳng chịu nổi khí hậu sa mạc, nên tới được Hành Lang Hà Tây, [cả đoàn quân chỉ còn sót lại] gần như chưa tới một vạn người. Cuối cùng, toàn bộ cánh quân ấy bị diệt, rốt cuộc, còn lại hơn một trăm người tự sát tập thể tại Cam Túc, Trung Quốc.

      Câu chuyện đã được kể rất rõ ràng, và cũng được kể hết sức tường tận, là thật, chẳng giả. Quý vị thấy quỷ hồn của những người đã chết từ hai ngàn một trăm năm trước, được gọi là “cô hồn dã quỷ”, họ ôm nỗi chấp trước, vẫn [tự coi mình] là một quân đoàn trú đóng tại nơi ấy. Thống soái khá lắm, là con trai thứ ba của Caesar, tức tam vương tử. Binh lính yêu mến vị thống soái này, thống soái cũng yêu thương binh lính. Hiện thời, cánh quân linh hồn ấy đã biến thành du hồn, hết sức tích cực, dựa vào thân một người để kể câu chuyện này. Chúng tôi đến thăm La Mã, đem chuyện này nói với người La Mã, người La Mã có biết hay không? Biết, quả thật là trong lịch sử của họ có ghi chép, sau khi đã phái đi một đạo quân bèn chẳng có tin tức, biến thành một điều bí ẩn. Thuở ấy, người ta tưởng chắc là do bị lạc đường, nên đội quân ấy bị mất tích. Nay thì biết toàn bộ đã chết tại Trung Quốc. Quý vị thấy chuyện cách đây hai ngàn một trăm năm, những linh hồn ấy vẫn còn hết sức tích cực, chẳng giả. Sau khi đã chết, họ biết rất nhiều chuyện, biết gì vậy? Giết người phải đền mạng, cướp đoạt phải đền nợ! Chẳng đạt được tí ti tiện nghi nào! Vì thế, cuốn sách ấy là giáo dục nhân quả. Sau nhiều năm sống trong khổ sở như vậy, họ gặp Phật pháp, bèn quy y Tam Bảo tập thể. Bồ Tát từng bảo họ: “Trung Quốc chẳng phải là chỗ của quý vị, quý vị đến đây làm gì?” Tôi đọc cuốn sách ấy, đối với tôi, câu nói đó có một sự khải thị rất lớn, nói rõ điều gì? Dùng chiến tranh để cướp đoạt thì [đoạt được] vẫn là do trong mạng quý vị vốn có, quý vị nói xem có oan uổng hay không? Trong mạng chẳng có, dùng phương pháp chiến tranh vẫn chẳng thể đạt được! Vì thế, lập tức khiến cho chúng tôi nghĩ đến người Nhật phát động chiến tranh xâm lược Trung Quốc, đánh nhau tám năm rồi đầu hàng. Trung Quốc chẳng phải là nơi chốn của Nhật Bản, quý vị đến làm gì? Tin tức này cho chúng ta biết: Dùng võ lực chiếm đoạt người khác, rất sai lầm, phạm tội ác rất nặng.

      Cổ nhân nói rất hay: “Mạng lý hữu thời chung tu hữu, mạng lý vô thời mạc cưỡng cầu” (Trong mạng có, ắt rồi phải có; số đã không có, chớ cưỡng cầu). Quý vị phải tin vào nhân quả báo ứng. Quý vị mong phát tài, trong kinh có lý luận và phương pháp để phát tài. Quý vị học theo thì mới có thể phát tài; đúng lý, đúng pháp thì mới có thể đạt được. Chẳng đúng lý, chẳng đúng pháp, dựa vào phiền não tập khí của chính mình, dùng các thứ thủ đoạn bất chánh để đạt được, vẫn là do trong mạng có. Nếu trong mạng chẳng có, sẽ không đạt được, dẫu đạt được rồi cũng bị mất đi, sao lại khổ sở đến thế? Vì thế, giáo dục nhân quả tốt đẹp lắm, có thể giúp chúng ta sống cuộc đời bình thường. Chúng ta cầu trí huệ, cầu sống lâu, cầu của cải, trong kinh Phật đều có các phương pháp, có lý luận. Hãy đúng lý, đúng pháp mà cầu. “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”, chẳng có gì không cầu được. Khó nhất là cầu thành Phật. Quý vị thấy thành Phật mà còn có thể cầu được, những thứ tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian, thường gọi là “công danh, phú quý”, nhìn theo Phật pháp sẽ toàn là chuyện vặt vãnh, quá nhỏ nhoi, lẽ nào chẳng thể cầu được! Vì sao không dùng phương pháp bình thường để cầu, mà cứ phải dùng thủ đoạn phi pháp? Do thủ đoạn phi pháp mà cầu được, là do trong mạng quý vị có, nhưng vẫn là phạm tội! Phạm tội thì tuy quý vị cầu được, trong mạng đã bị chiết khấu, suy giảm, nhưng chính quý vị chẳng biết! Nếu quý vị biết, trong mạng quý vị phú quý là do nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ đã tu tập, tích lũy. Trong Phật pháp có đạo lý to lớn, chớ nên không biết.

      Kinh văn đã nêu rõ trạng huống khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, Ngài ở trong rừng Sa La Song Thụ, lìa khỏi thế gian ở nơi ấy, nhập đại tịch định. Đại tịch định là Đại Bát Niết Bàn, nhập Vô Dư Niết Bàn, đức Phật đã khuất bóng. Đây là tướng cuối cùng trong tám tướng thành đạo của Thích Ca Mâu Ni Phật, vì sao phải thị hiện tướng ấy? Nếu đức Phật chẳng thị hiện tướng ấy, thường trụ trong nhân gian, kẻ bình phàm sẽ nẩy sanh hiểu lầm: Phật là một vị thần, trường sanh bất lão, làm sao chúng ta có thể làm được? Chúng ta sẽ chẳng dám học tập Ngài. Vì thế, đức Phật thị hiện giống như kẻ bình phàm chúng ta, có sanh, lão, bệnh, tử, mọi người liền tin tưởng. Phật chẳng phải là thần, Phật là người, Ngài có thể làm được, chúng ta cũng có thể làm được, tín tâm bèn mười phần trọn đủ. Đồng thời, Ngài đã ban cho chúng ta một sự cảnh giác cao độ, lúc quý vị thấy đức Phật tại thế, tuy theo học với Ngài, nhưng chẳng nghiêm túc, giải đãi, lười nhác, tán loạn. Đức Phật đã tịch rồi, đức Phật đã khuất bóng thì không còn chỗ nương cậy, nếu không nghiêm túc nỗ lực, mai sau sẽ xoay sở ra sao? Kích động, phát khởi đạo tâm nghiêm túc tu học của chính mình! Có hai thứ ý nghĩa như vậy, khiến cho chúng ta biết đức Phật chẳng thường trụ lâu dài trong nhân gian, Phật sẽ ra đi, chúng ta phải nắm chặt thời tiết nhân duyên này! Sau khi đức Phật đã khuất bóng, Ngài có dạy chúng ta, pháp vận của lão nhân gia dài đến một vạn hai ngàn năm. Pháp vận, nói theo cách hiện thời, sẽ là “sức ảnh hưởng”. Nói theo phương diện không gian, Ngài có sức ảnh hưởng trên cả thế giới. Nói theo phương diện thời gian, Ngài có sức ảnh hưởng suốt một vạn hai ngàn năm. Đó là đại đức. Chẳng phải là đại đức thì làm sao có thời gian ảnh hưởng lâu dài như thế?   

Chúng ta hiểu rõ, chỉ biết Phật giáo hiện thời tuy suy vi, pháp vận của đức Phật hãy còn kéo dài tới tám ngàn năm sau. Pháp vận của đức Phật có lúc lên cao, có khi xuống thấp, hiện thời nhằm lúc thoái trào, trong tương lai sẽ có cao trào hay chăng? Khẳng định là có. Nhưng chúng ta nhất định phải nhận biết Phật pháp là giáo dục, quyết định chẳng phải là tôn giáo, phải hiểu rõ điều này. Phật giáo thừa nhận trong vũ trụ có thần, có quỷ thần, có thiên thần, có Phật, Bồ Tát trong các thế giới phương khác, đó là vũ trụ quan Phật giáo. Nhưng Phật trọn chẳng sùng kính thần, chư vị phải biết điều này. Nói đúng ra là quan hệ giữa chúng ta và Phật giống như quan hệ giữa người và người, chỉ là chúng sanh trong các chiều không gian khác nhau. Dục Giới Thiên và Sắc Giới Thiên khác chiều không gian với chúng ta. Quỷ thần cũng chẳng thuộc cùng một kích thước không gian với chúng ta. Nếu chúng ta có thể đột phá các chiều không gian, quý vị có thể thấy trọn vẹn. Có năng lực đột phá hay không? Có năng lực, tâm thanh tịnh hiện tiền, thời gian và không gian đều chẳng có. Nói theo Phật pháp, quý vị có thể chứng đắc quả vị A La Hán, có thể siêu việt thời gian và không gian. Bồ Tát có năng lực lớn hơn nữa, năng lực của Phật trọn khắp pháp giới, hết thảy chướng ngại đều chẳng có. Vì lẽ đó, bao nhiêu là thiên thần và quỷ thần đều là đệ tử Tam Bảo, quy y Phật Đà, họ cũng nghe kinh, nghe pháp, cũng tu hành, cũng niệm Phật, người cầu sanh Tịnh Độ cũng rất nhiều. Quỷ thần đều phát tâm cầu sanh Tịnh Độ; nếu chúng ta chẳng phát tâm thì ngay cả quỷ thần cũng chẳng sánh bằng, chớ nên không hiểu đạo lý này!

      Tiếp theo là: “Hựu Chân Giải vân: Phổ Đẳng tam-muội cập đại tịch định, tịnh thị Niệm Phật tam-muội dị danh dã. Kim Phật vị thuyết Niệm Phật pháp môn, trụ Niệm Phật tam-muội” (Sách Chân Giải lại viết: “Phổ Đẳng tam-muội và đại tịch định đều là tên gọi khác của Niệm Phật tam-muội. Nay đức Phật vì để nói pháp môn Niệm Phật bèn trụ trong Niệm Phật tam-muội”). Cách giải thích càng ngày càng gần gũi Tịnh Tông. Phổ Đẳng tam-muội: Phổ () là phổ biến, trọn khắp pháp giới là Phổ; Đẳng () là bình đẳng. Ba căn đều thích hợp trọn khắp, thâu gồm toàn bộ lợi căn và độn căn, đó là Đẳng. Bất luận căn tánh như thế nào, pháp môn Niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ là phổ đẳng, tức là chẳng có mảy may sai biệt, phổ biến bình đẳng. Chỉ cần quý vị gặp gỡ, chỉ cần quý vị có thể tin, hiểu, thật tu, chẳng có ai không vãng sanh. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng thể nào không thành Phật. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, thành Phật có sớm hay muộn, đó là do mỗi người siêng năng hay lười biếng khác nhau. Dũng mãnh, tinh tấn, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ thành Phật rất nhanh. Giải đãi, lười biếng, tán loạn, chẳng sốt sắng, sẽ chẳng bị thoái chuyển, [chỉ là] tiến bộ chậm hơn, nhưng vẫn thành Phật. Do đó nói pháp môn này là pháp môn Phổ Đẳng, còn đến đâu để tìm nữa? Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, có rất nhiều môn bất bình đẳng, có những pháp môn chỉ thích hợp bậc thượng thượng căn, kẻ bình phàm chẳng tu được. Có những pháp môn chỉ thích hợp bậc thượng căn, kẻ trung hạ chẳng có phần. Có những pháp môn thích hợp kẻ hạ căn, người thượng căn cũng chẳng thể học. Ví như trong kinh Tiểu Thừa, có rất nhiều kinh giảng pháp nhân thiên, những bậc thượng căn biết sanh thiên chẳng rốt ráo, nên chẳng muốn học. Chẳng giống như pháp môn Tịnh Tông, pháp môn này đúng là Phổ Đẳng tam-muội, học pháp môn này bình đẳng. Chúng ta chọn cách trì danh niệm Phật. Trong Thập Lục Quán Kinh, Trì Danh Niệm Phật là phép Quán cuối cùng, tức phép Quán thứ mười sáu. Được liệt kê cuối cùng thì cũng là pháp môn kỳ lạ, đặc biệt nhất. Đối với chuyện này, Cổ Ấn Độ và Trung Hoa có nhiều chỗ rất giống nhau, khi diễn xuất nghệ thuật, màn biểu diễn hay nhất được đặt cuối cùng, người Ấn Độ cũng giống như vậy. Vì thế, phép Quán cuối cùng trong mười sáu phép Quán sẽ là pháp môn trọng yếu nhất và thù thắng nhất trong mười sáu phép Quán, tức là Trì Danh Niệm Phật. Trước nó, có các phép Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, cuối cùng là Trì Danh Niệm Phật, chúng ta phải biết đạo lý này.

      Kinh dạy: “Phổ Đẳng tam-muội cập đại tịch định, tịnh thị Niệm Phật tam-muội dị danh” (Phổ Đẳng tam-muội và đại tịch định đều là tên gọi khác của Niệm Phật tam-muội), là biệt danh. Phổ Đẳng tam-muội là Niệm Phật tam-muội, kinh còn gọi nó là Đại Tịch Định. “Kim Phật vị thuyết Niệm Phật pháp môn, trụ Niệm Phật tam-muội” (nay vì nói pháp môn Niệm Phật, đức Phật trụ trong Niệm Phật tam-muội): Trong pháp hội hiện thời, đức Phật vì đại chúng nói pháp môn Niệm Phật, giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới cặn kẽ cùng đại chúng. Phật trụ ở nơi đâu? Phật trụ trong Niệm Phật tam-muội. “Ức Phật, niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật” (nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại, tương lai, nhất định thấy Phật), tin tức này nhằm bảo với chúng ta: Trong tâm chúng ta tưởng Phật, miệng niệm Phật, được Phật lực gia trì; hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật là Phật lực gia trì. Phật ở chỗ nào? Không nơi đâu, Phật chẳng hiện diện, không lúc nào chẳng tồn tại. Thiền sư Trung Phong bảo chúng ta: “Phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là phương này”. Vì thế, Phật không lúc nào chẳng hiện diện, không nơi đâu chẳng hiện hữu. Phật do đâu mà có? Phật là tự tánh biến hiện. “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, “tâm ta chính là Di Đà, Di Đà chính là tâm ta”. Quý vị thấy đó: Nói rất rõ ràng, rất minh bạch, những đoạn kinh văn khai thị ấy đã giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín. Khi trước, tôi thường nói: Chúng ta mong mỏi xã hội an định, thế giới hòa bình, phải như thế nào thì mới thực hiện được? Người trên thế giới ai nấy đều có thể làm tròn những việc thuộc về bổn phận của chính mình, điều này rất trọng yếu. Tương thân, tương ái những người có nghề nghiệp khác biệt, cùng nhau hợp tác, xã hội sẽ an định, phồn vinh, thế giới cũng thật sự hài hòa, mà cũng chẳng có tai nạn, [các tai nạn đã bị] hóa giải rồi! Mỗi người thực hiện tốt đẹp những chuyện thuộc bổn phận, bổn phận của người xuất gia học Phật là gì? Bổn phận là giảng kinh, giáo học, bổn phận là như vậy đó! Xuất gia thì phải học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, tại gia phải học theo cư sĩ Duy Ma. Cư sĩ Duy Ma là đức Phật tại gia, Thích Ca Mâu Ni Phật là Phật xuất gia, các Ngài có cùng đẳng cấp, chẳng có cao thấp!

      Từ kinh điển, từ kinh Duy Ma Cật, chúng ta thấy cư sĩ Duy Ma giảng kinh, thuyết pháp, các vị Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất đến nghe kinh. Quý vị thấy các Ngài đối với cư sĩ Duy Ma lễ kính, đảnh lễ ba lạy, nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, lễ tiết hoàn toàn giống như gặp Thích Ca Mâu Ni Phật. Sự biểu diễn ấy nhằm bảo chúng ta: Phật giáo là sư đạo, là giáo dục. Trong sư đạo, thầy lớn nhất, tôn sư trọng đạo. Chẳng thể nói quý vị là đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, đến chỗ cư sĩ Duy Ma nghe kinh, sẽ cao hơn người ta một bậc. [Nếu nghĩ như vậy] trật mất rồi! Chẳng có đạo lý ấy! Vì thế, người thăng tòa giảng kinh là lớn nhất. Cư sĩ Duy Ma là nam tử. Nếu là nữ chúng tỳ-kheo-ni thăng tòa giảng kinh, nam chúng đến nghe kinh, phải ghi nhớ: “Thầy luôn là lớn nhất!” Chẳng còn phải bàn ra tán vào chi nữa! Bà ta thăng tòa, đại diện cho Phật giảng kinh, giáo học, tỳ-kheo trông thấy phải lễ bái. Không lễ bái tức là chẳng tôn trọng pháp! Vị tỳ-kheo-ni ấy lại chẳng dám nhận lễ, làm như thế nào? Đặt trên giảng đài, trước mặt vị ấy một bức tượng Phật. Khi người ta lạy sẽ là lạy tượng Phật, ta ở sau tượng Phật, cách làm này cũng đúng pháp, cũng rất tốt. Trước giảng đài thờ tượng Phật, khi tỳ-kheo đến sẽ bái Phật. Do đó, Phật pháp có phương tiện thiện xảo, chẳng đánh mất tâm cung kính. Vì tâm cung kính, chẳng phải chỉ là cung kính pháp, cung kính thầy, mà còn khiến cho đại chúng đều trông thấy, làm cho đại chúng đều học tập, người lên đài thăng tòa đại diện cho Phật! Khi vị thầy của chính mình nếu đến nghe [học trò giảng] kinh thì cũng phải đối trước [người giảng] xá chào, cung kính Tam Bảo. Đó là biểu diễn, thường nói là làm Ảnh Hưởng Chúng, đều nhằm hướng dẫn, giáo hóa chúng sanh. Vì vậy, dụng ý biểu thị pháp rất sâu.

      “Cố tri đại tịch định, thông thuyết tức vi Phật chi Thiền Định, danh Đại Bát Niết Bàn. Nhược án kim kinh, tắc chỉ Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội xưng Bảo Vương tam-muội, vi tam-muội trung vương. Kim nhật Thế Tôn khai diễn Tịnh Độ pháp môn, cố nhập Niệm Phật Bảo Vương tam-muội” (Như vậy, Ðại Tịch Ðịnh nói chung là một thứ Thiền Định của Phật mang tên Ðại Niết Bàn. Nếu xét theo kinh này, chữ “đại tịch định” chỉ Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội được gọi là Bảo Vương tam-muội, là vua trong các tam-muội. Giờ đây, đức Thế Tôn khai diễn pháp môn Tịnh Ðộ, nên Ngài nhập Niệm Phật Bảo Vương tam-muội). Ý nghĩa này rất sâu, từ danh xưng của tam-muội, chúng ta có thể thấu hiểu, “kim kinh” là nói đến kinh Vô Lượng Thọ, nói về điều gì? Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội được gọi là Bảo Vương, hai chữ này rất khó có. Bảo () là tỷ dụ, hình dung pháp môn này quý báu. Quý vị thấy bảy báu trong thế gian, vàng, bạc, lưu ly, mã não… Quý vị có được bảy báu, sẽ xa lìa sự nghèo cùng thiếu thốn trong cuộc sống vật chất, đạt được của cải, giàu có. Ở đây, chữ Bảo chỉ Phật pháp. Phật pháp còn trân quý hơn bảy báu của thế gian. Của báu trong thế gian có thể giúp đỡ thân mạng, khiến cho thân mạng quý vị sống thoải mái. Pháp Bảo có thể giúp đỡ huệ mạng, cũng có nghĩa là Pháp Bảo đem lại cuộc sống tinh thần còn thù thắng hơn cuộc sống vật chất. Cuộc sống vật chất dẫu phong phú cách mấy đi nữa mà chẳng có cuộc sống tinh thần; đó gọi là “giàu mà không vui”. Người ấy tuy giàu có, tuy địa vị rất cao, sống cuộc đời rất nhọc nhằn. Chúng ta thường thấy chuyện này, trong xã hội, gần như mỗi ngày quý vị đều thấy như vậy. Họ sống cuộc đời chẳng vui sướng, chẳng hạnh phúc! Người có cuộc sống tinh thần phong phú, sẽ sung sướng. Tuy nghèo cùng, chẳng có của cải, hèn mọn, chẳng có địa vị, [tức là] chẳng có địa vị trong xã hội, chẳng có tài sản, nhưng mỗi ngày sống vui sướng. Niềm vui do đâu mà có? Niềm vui sanh từ trí huệ, trí huệ là cội nguồn của cuộc sống tinh thần, thật sự đem lại hạnh phúc mỹ mãn, vui sướng vô cùng! Nói nông cạn, người có trí huệ chẳng tạo nghiệp. Không tạo nghiệp sẽ chẳng hứng chịu khổ báo, tương lai chẳng có thân này, tuyệt đối không vào ba ác đạo. Tâm địa thanh tịnh, người công phu tốt đẹp một chút sẽ biết chính mình đến đâu, không nhất định phải là học Phật thì mới biết trước lúc mất, người chẳng học Phật cũng tự biết trước lúc mất. Có nhiều người sanh lên cõi trời, lúc mạng chung, chư thiên đến tiếp dẫn, đồng nam đồng nữ cõi trời đến tiếp dẫn người ấy vãng sanh, biết sẽ ra đi khi nào. Phước báo cõi trời lớn hơn nhân gian nhiều lắm, tâm địa cũng thanh tịnh hơn nhiều! Người công phu tu hành tốt đẹp, chứng đắc quả vị, lại càng chẳng cần phải nói nữa. Có A La Hán tiếp dẫn, thiện thần tiếp dẫn, Bồ Tát tiếp dẫn. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, quý vị thấy thù thắng dường ấy. Đó gọi là Bảo Vương tam-muội.

      Tu Niệm Phật tam-muội như thế nào? Kinh dạy chúng ta: “Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”. Khi nào sẽ đắc tam-muội? Tam-muội là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Chánh Thọ, hoặc Chánh Định. Thọ () là hưởng thụ. Chánh Thọ là sự hưởng thụ đúng đắn. Trong kinh, đức Phật đã dạy: Lục đạo phàm phu hưởng thụ cuộc sống hằng ngày bất bình thường! Đức Phật nói có năm thứ [cảm thụ], thân có khổ vui, tâm có lo mừng. Vì thế, năm thứ cảm thụ ấy là nói gộp thân và tâm lại, tức là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Chữ cuối cùng là Xả, tức là thân chẳng có khổ, vui, tâm cũng chẳng có lo, mừng; nay khổ, lạc, ưu, hỷ, xả đều chẳng có, nên gọi là Xả Thọ. Trên thực tế, Xả Thọ và Chánh Thọ hết sức gần gũi, vì sao chẳng gọi Xả là Chánh? Vì thời gian Xả rất ngắn, rất nhanh, quý vị lại có khổ, lạc, ưu, hỷ. Chánh Thọ là khổ, lạc, ưu, hỷ thật sự chẳng có. Chẳng có khổ, lạc, ưu, hỷ, xả thì gọi là Chánh Thọ. Chánh Thọ là như trong tựa đề kinh có nói “thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Thanh tịnh là Chánh Thọ của A La Hán và Bích Chi Phật, là cảnh giới tam-muội của các Ngài. Bình đẳng là Chánh Thọ của Bồ Tát. Giác là Chánh Thọ của chư Phật, chúng ta thường nói là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. Đạt đến giác, đương nhiên thanh tịnh và bình đẳng đều trọn đủ. Đạt đến bình đẳng, chẳng đạt được giác. Đạt được bình đẳng bèn có thanh tịnh, điều sau bao gồm điều trước, điều trước chẳng bao gồm điều sau. Do đó, pháp môn Niệm Phật được gọi là Bảo Vương tam-muội, điều này quá khó có, hy hữu! “Kim nhật Thế Tôn khai diễn Tịnh Độ pháp môn, cố nhập Niệm Phật Bảo Vương tam-muội” (Giờ đây, đức Thế Tôn khai diễn pháp môn Tịnh Ðộ, nên Ngài nhập Niệm Phật Bảo Vương tam-muội); do đó mới có chuyện kỳ đặc phóng quang, hiện tướng lành, đó là tự nhiên cảm ứng, đức Phật chẳng khởi tâm động niệm, chúng ta nhất định phải biết điều này. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 70 hết

 



[1] Thật ra, ngài Cảnh Hưng là người xứ Tân La (một vương quốc cổ vào thời Tam Quốc của Đại Hàn), không rõ năm sanh và năm mất (có thuyết nói Ngài sanh vào thế kỷ thứ bảy), có họ ngoài đời là Thủy, quê ở xứ Hùng Xuyên, xuất gia năm mười tám tuổi, tinh thông Tam Tạng, được tôn làm Quốc Sư, trụ trì chùa Tam Lang, chuyên tâm trước thuật. Ngài đặc biệt ưa thích kinh Hoa Nghiêm. Một hôm cưỡi ngựa vào hoàng cung, được Văn Thù Bồ Tát ngầm răn dạy, nên từ đó không bao giờ cỡi ngựa nữa. Ngài cho khắc sự tích này vào văn bia tại chùa Tam Lang. Ngài trước thuật khá nhiều, đặc biệt là các bộ Đại Bát Niết Bàn Kinh Sớ, Kim Quang Minh Kinh Thuật Tán, Tứ Phần Luật Yết Ma Ký, Đại Thừa Khởi Tín Luận Vấn Đáp, Du Già Luận Sớ… rất nổi tiếng. Ngài được tôn là sáng tổ của Pháp Tướng Tông tại Đại Hàn. Đặc biệt là bộ Vô Lượng Thọ Kinh Liên Nghĩa Thuật Văn Tán của Ngài được các vị Nguyên Tín (Pháp Nhiên thượng nhân, sáng tổ Tịnh Độ Tông Nhật Bản) và Thân Loan (sáng tổ Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản) trích dẫn rất nhiều trong trước thuật của họ, nên dễ gây hiểu lầm ngài Cảnh Hưng là một vị danh tăng người Nhật.

[2] Bổn () ở đây có nghĩa là quả vị chứng đắc thật sự, trong khi Tích () là những sự thị hiện nhằm hóa độ. Chẳng hạn, ngài A Nan thị hiện thân phận Sơ Quả Tu Đà Hoàn, nhưng Bổn của Ngài phải là bậc Pháp Thân Đại Sĩ, vì trong kinh Pháp Hoa đã nói rõ các đệ tử Thanh Văn của Ngài là“nội bí Bồ Tát hạnh, ngoại thị hiện Thanh Văn” (bên trong là hạnh Bồ Tát bí mật, bên ngoài hiện tướng Thanh Văn).

[3] Văn Uyên Các (文淵閣, tên Mãn Châu là Šu Songkon Asari) chính là tàng thư lâu của triều đình nhà Thanh. Kiến trúc nằm phía Bắc điện Văn Hoa, thuộc trong phạm vi của Tử Cấm Thành. Thật ra, công trình này được kiến tạo vào đời Vĩnh Lạc nhà Minh. Cũng giống như Văn Uyên Các thuộc cố cung Nam Kinh, Văn Uyên Các ở Bắc Kinh cũng nằm ở góc Đông Nam cửa Tả Thuận, và đã hư hại theo thời gian. Đến thời Càn Long, nhà vua hạ lệnh xây Văn Uyên Các phía sau điện Văn Hoa trên nền cũ của Thánh Tế Điện, mãi đến năm Càn Long 41 (1776) mới dựng xong, chủ yếu để lưu trữ Tứ Khố Toàn Thư và Khâm Định Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành. Sau khi xây xong, mỗi tháng vua ra lệnh cho các đại học sĩ mở một buổi kinh diên (khóa giảng về kinh sách Nho giáo) cho các học trò Quốc Tử Giám tại đó.

[4] Mao Toại là người nước Triệu, sống vào thời Chiến Quốc, là môn khách của Bình Nguyên Quân (Triệu Thắng) đã lâu, nhưng chưa ai biết tới tài năng. Năm thứ chín đời Triệu Hiếu Thành Vương (275 trước Công Nguyên), nước Tần vây hãm kinh thành Hàm Đan của nước Triệu, Bình Nguyên Quân cầm tiết việt sang nước Sở cầu cứu. Mao Toại thừa dịp, tự giới thiệu, đề cao mình, đối đáp khẳng khái, nên được Bình Nguyên Quân cho theo đàm phán. Khi Bình Nguyên Quân và Sở Khảo Liệt Vương đang bàn cãi, Mao Toại bèn nói rạch ròi lẽ lợi hại, khiến vua Sở đồng ý liên minh với Triệu. Vì chuyện này mới có thành ngữ “Mao Toại tự tiến”. Bình Nguyên Quân là con của Triệu Linh Vương (Triệu Ung), em trai Triệu Huệ Văn Vương (Triệu Đan), từng giữ chức Tể Tướng của hai đời vua Triệu Huệ Văn Vương và Triệu Hiếu Thành Vương. Ông là một chính trị gia nổi tiếng, đồng thời nuôi rất nhiều môn khách (danh sĩ đến làm cố vấn). Bình Nguyên Quân cùng với Mạnh Thường Quân (Điền Văn) nước Tề, Tín Lăng Quân (Ngụy Vô Kỵ) nước Ngụy, và Xuân Thân Quân (Hoàng Hiệt) nước Sở nổi tiếng là những người rộng lượng, hiền đức, được người đương thời gọi chung là Chiến Quốc Tứ Công Tử.