Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 70
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
139
Chư vị pháp sư, chư vị
đồng học, xin hãy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm
năm mươi chín, hàng cuối cùng:
“Hựu
như minh kính, ảnh sướng biểu lý” (lại
như gương sáng, chiếu suốt trong ngoài), “Ảnh giả, quang ảnh dã.
Sướng giả, thông đạt dã. Hải Đông Cảnh
Hưng viết” (Ảnh (影) là bóng của ánh
sáng, Sướng (暢) là thông đạt.
Ngài Hải Đông Cảnh Hưng nói), pháp sư Cảnh
Hưng [nói], “kính quang ngoại
chiếu, danh vi ảnh biểu, tức đồng Phật
thân quang minh ngoại thư. Ngoại chiếu chi quang hiển
ảnh, sướng tại kính nội, diệc đồng
sở phóng quang hoàn diệu nguy nhan, cố vân biểu lý”
(ánh
sáng của gương chiếu ra ngoài gọi là “ảnh
biểu”, giống như thân Phật có quang minh tỏa ra
ngoài. Ánh sáng chiếu ra ngoài lại hiện rõ hình ảnh trong
gương, cũng giống như quang minh đã phóng ra bèn
soi ngược lại, khiến cho
vẻ mặt rạng rỡ. Do vậy, bảo là “biểu
lý”). Chúng ta xem đoạn
này.
Đây là câu kinh
văn thứ hai: “Hựu
như minh kính, ảnh sướng biểu lý, hiện đại
quang minh, sổ thiên bách biến” (lại cũng như
gương sáng, chiếu suốt trong ngoài, hiện quang minh
lớn, biến hiện ra mấy trăm ngàn thứ). Đây là tỷ dụ,
tỷ dụ chuyện đức Phật phóng quang. Trong
kinh Đại Thừa, thông thường đức Phật
phóng quang đều nhằm biểu thị pháp, biểu thị
những nội dung được giảng trong lần
này, từ sự phóng quang [thính chúng]
sẽ có thể cảm nhận được. “Ảnh sướng biểu lý”: Ảnh (影) là hình bóng của
ánh sáng, Sướng (暢) là thông đạt,
chẳng bị chướng ngại. Hải Đông (海東) là Nhật Bản. Pháp sư Cảnh Hưng (憬興) của Nhật Bản[1] có
chú giải kinh Vô Lượng Thọ. “Kính quang ngoại chiếu”: Đây là nói tỷ dụ,
ánh sáng từ trong gương chiếu hắt ra, bèn gọi
là “ảnh biểu” (影表). “Tức đồng Phật
thân quang minh ngoại thư” (giống như thân Phật có
quang minh tỏa ra ngoài): Đức Phật phóng quang, có khi là
đỉnh đầu phóng quang, có khi phóng quang từ bạch
hào. Bạch hào ở giữa hai chân mày, bạch hào phóng
quang. Có khi là diện môn phóng quang, có khi toàn thân phóng quang.
Trong đoạn kinh văn này, chẳng nói là bộ phận
nào, nhưng “oai quang hách dịch”
(oai quang rạng ngời, tràn trề) thì phải là quang minh
nơi toàn thân, điều này hết sức đặc thù.
“Ngoại chiếu chi quang hiển
ảnh” (Ánh sáng chiếu ra ngoài soi rõ hình ảnh), ảnh
ở chỗ nào? Ảnh ở trong gương.“Sướng
tại kính nội” (hiện rõ trong gương), “diệc đồng sở phóng chi quang” (cũng
giống như quang minh đã phóng ra), ý nghĩa này
được nói rõ trong câu kế tiếp: Ánh sáng không
chỉ chiếu ra ngoài, mà còn tự chiếu chính mình. Đó
là “quang minh biến chiếu” (quang minh chiếu
trọn khắp). Chiếu ra ngoài là “ảnh biểu”, chiếu chính mình là “biểu lý”, trong lẫn ngoài
đều chiếu.
“Tịnh
Ảnh Sớ viết” (Tịnh Ảnh Sớ giảng),
bản chú giải này là của Trung Hoa, tức Vô Lượng
Thọ Kinh Nghĩa Sớ của pháp sư Huệ Viễn
đời Tùy, trong ấy cũng nói theo cách này: “Kính quang ngoại chiếu, danh vi
ảnh biểu. Ngoại chiếu chi quang, minh hiển kính nội,
danh vi ảnh lý. Phật thân như thị, quang minh ngoại
chiếu sở phóng chi biểu, hiển diệu Phật
thân, danh ảnh biểu lý” (Ánh sáng từ gương chiếu
ra ngoài, gọi là Ảnh Biểu. Quang minh chiếu ra ngoài rồi
lại hiện rõ trong gương gọi là Ảnh Lý. Thân
Phật giống như vậy, quang minh chiếu ra ngoài là
Biểu, chiếu rạng ngời thân Phật là Ảnh Biểu
Lý). Tiếp đó, lão cư sĩ bảo: “Án thượng lưỡng thuyết” (Xét theo hai
thuyết trên đây), đó là cách giảng của các vị
tổ sư đại đức Trung Hoa và Nhật Bản
từ xưa, “Phật thân nội
ngoại ánh triệt” (thân Phật trong ngoài rạng ngời),
phóng quang lần này rất đặc thù, toàn thân phóng quang,
trong ngoài sáng ngời, “dụ
như minh tịnh chi kính” (ví như tấm gương
sáng sạch), dùng gì? Dùng tấm gương sáng ngời sạch
làu hết mức để tỷ dụ. “Do kính phóng quang ngoại chiếu” (từ kính tỏa
ánh sáng chiếu ra ngoài), đó là “ảnh
biểu”. “Sở phóng quang
minh hoàn chiếu kính nội” (quang minh đã tỏa ra lại
chiếu ngược vào kính), đó là “ảnh lý” (影裡).
Trong hai bản
dịch đời Ngô và Hán, [các câu như] “Phật quang sổ bách thiên sắc, sổ bách thiên biến,
quang thậm đại minh, thượng hạ minh triệt,
nguy nguy trùng minh, giai hiển ảnh sướng biểu lý
chi nghĩa” (quang minh của Phật mấy trăm ngàn sắc,
mấy trăm ngàn thứ biến hiện, quang minh rất
mực sáng rực, trên dưới chiếu thấu
suốt, sáng ngời, càng
sáng vằng vặc bội phần, đều nhằm nói
rõ ý nghĩa “ảnh sướng biểu lý”). Đây
là xét theo các bản dịch khác nhau. “Tống
dịch vi diện sắc viên mãn, bảo sát trang nghiêm, tắc
cánh hiển Phật quang minh trung, ảnh hiện thập
phương bảo sát, như đại viên bảo kính,
ánh hiện thập phương. Như Chân Giải sở
thích: Tắc quang nhan nguy nguy trung, ảnh hiện bảo sát
trang nghiêm tướng, kỳ do châu bảo kính trung, năng
hiện sâm la vạn tướng. Thượng thuyết
chánh hiển Hoa Nghiêm cảnh giới” (Câu “sắc
mặt viên mãn, cõi báu trang nghiêm” trong bản Tống dịch
đã chỉ rõ: Trong quang minh của Phật hiện bóng
mười phương cõi báu, như gương báu to tròn
hiện bóng mười phương. Sách Chân Giải
giảng rằng: “Trong ánh quang minh vằng vặc,
hiện bóng tướng trang nghiêm của các cõi báu trong
mười phương, giống như trong gương
châu báu hiện ra tướng sâm la vạn hữu”.
Thuyết trên đây thật đúng là đang nói về
cảnh giới Hoa Nghiêm). Hợp mấy bản này lại
để xem, có thể thấu hiểu đôi chút ý
nghĩa sâu xa của quang minh này.
Hiện tượng
này quả thật đã khiến cho ngài A Nan kinh ngạc, lạ
lùng. Ngài nghĩ chuyện này hy hữu, thù thắng, đặc
biệt. Trong quá khứ, nghe đức Phật giảng
kinh, chưa hề thấy tướng tốt đẹp
như vậy. Chúng ta biết ngài A Nan là thị giả của
đức Phật, gần như mỗi buổi giảng
Ngài chẳng vắng mặt. Đức Phật giảng
kinh phóng quang là hiện tượng bình thường, Ngài
cũng đều đã thấy; nhưng hôm nay thấy
đức Phật toàn thân phóng quang, đó là chuyện hy hữu.
Trong Phật pháp, quang minh biểu thị trí huệ, toàn thân
phóng quang biểu thị điều gì? Trí huệ viên mãn. Bộ
kinh này hiển lộ trí huệ viên mãn của Như Lai, có
ý nghĩa này. Thật ư? Chẳng giả tí nào! Chỉ có
riêng bộ kinh này là có thể độ hết thảy
chúng sanh. Một vạn năm trong đời Mạt Pháp
đã trải qua một ngàn lẻ ba mươi bảy
năm, từ nay trở đi hãy còn hơn tám ngàn năm, thật
sự có thể đắc độ, thành tựu viên mãn
trong một đời, chỉ có mỗi pháp môn này, mà
cũng chỉ có mình bộ kinh này! Vì thế, [thời tiết,
nhân duyên ấy] cảm Như Lai toàn thân phóng quang. Đức
Phật phóng quang có phải là do ý nghĩ của chính Ngài hay
không? Nghĩ sẽ phóng quang ở chỗ nào, bèn phóng quang tại
đó ư? Chẳng phải vậy. Nếu đức Phật
có ý nghĩ, Phật sẽ biến thành phàm phu! Do vậy,
chúng ta nhất định phải lý giải, phải ghi nhớ:
Bất luận đức Phật biểu hiện như
thế nào, Ngài chẳng hề khởi tâm động niệm!
Chẳng khởi tâm động niệm, chúng ta biết
phóng quang là cảm ứng. Quý vị nói xem: Pháp môn này, bộ
kinh điển này có tác dụng lớn cỡ nào? Bao nhiêu
chúng sanh được lợi ích? Tự nhiên. Như chúng
ta đã thấy trong kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn
phóng quang từ diện môn, chẳng phải là toàn thân. Do diện
môn chẳng phải là toàn thân, chúng ta hiểu bộ kinh ấy
cũng hết sức tuyệt diệu, nhưng độ
người thuộc căn tánh nào? Bậc thượng
căn trở lên. Trong quá khứ, Thiền Tông ắt phải
tu kinh này, Mật Tông cũng phải tu. Pháp môn này, tức
pháp môn Tịnh Tông “thích hợp
khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn
căn”. Bất luận căn tánh như thế nào, trừ
phi quý vị chẳng gặp gỡ, chứ khi quý vị gặp
được, chẳng có ai không thành tựu!
Trong
kinh có nói nhiều câu như thế, Phật quang “mấy trăm ngàn màu”, đó
là màu sắc của quang minh. “Mấy
trăm ngàn thứ biến hiện” là sự biến hóa.
“Quang minh rất mực sáng
rực”, “trên
dưới chiếu thấu suốt”, quý vị thấy
đó, “sáng vằng vặc
bội phần”. Văn tự trong các bản dịch đều nhằm
hiển thị ý nghĩa “ảnh
sướng biểu lý”. Nhất là chẳng thể
nghĩ bàn là như trong bản Tống dịch có nói, các bản
khác chẳng có: “Diện sắc
viên mãn, bảo sát trang nghiêm” (Sắc mặt viên mãn, cõi
báu trang nghiêm). Bản ấy có câu này, [hàm nghĩa] trong quang
minh hiện cõi nước, trong cõi nước hiện Phật,
trong Phật quang có thể thấy các cõi nước của
mười phương chư Phật. Điều này quá
hy hữu, cảnh giới ấy là cảnh giới Hoa
Nghiêm. Vì thế, cổ nhân nói: Kinh này được gọi
là Trung Bổn Hoa Nghiêm là có lý, lời lẽ ấy chẳng
phải là nói tùy tiện. Chúng ta nghĩ tới sự thù thắng
trong thế giới Cực Lạc, điều ấy
cũng có thể khơi gợi chúng ta, khiến cho chúng ta
tin sâu, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Chỉ cần
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
quý vị nhất định viên mãn Bồ Đề trong một
đời, có thể chứng đắc Phật quả rốt
ráo, tức Vô Thượng Bồ Đề. Pháp môn này ai nấy đều có phần, bất
luận căn tánh như thế nào, thật sự chịu
tu, chịu tin và chịu tu, người ấy chẳng
phải là phàm nhân. Đừng thấy người ấy
hiện thời dường như thiếu học thức,
chẳng biết chữ, là hạng ông già, bà cả, người
ta thiện căn trong đời quá khứ sâu dầy. Nếu
không, người ấy vừa nghe, vừa thấy, vì sao
liền tin tưởng? Vì sao có lắm kẻ đọc bộ
kinh này vẫn nửa tin, nửa ngờ? Người này chẳng
biết chữ, chưa hề niệm kinh, quý vị dạy
người ấy niệm A Di Đà Phật, người ấy
liền tin tưởng, lạ lùng thay! Thật ra, nếu
quý vị thâm nhập kinh tạng, sẽ chẳng thấy kỳ
quái. Trong đời quá khứ, trong A Lại Da Thức [của
người ấy] đã có căn, đã có chủng tử
Phật pháp sâu dầy, tương ứng với Tịnh
Tông, nên mới có hiện tượng ấy. Người ấy
chắc chắn thành tựu trong một đời.
Chúng
ta xem mấy câu tiếp theo có nói rõ: “Hiện đại quang minh, sổ thiên bách biến,
chỉ Phật ư hội thượng phóng đại
quang minh, thuấn tức vạn biến, quang sắc tham hồi,
tự nhiên tối thắng” (“hiện quang minh lớn biến hiện mấy
trăm ngàn thứ”, ý nói: Trong pháp hội, đức
Phật phóng quang minh lớn, trong chớp mắt, biến
hiện muôn thứ, màu sắc của các tia sáng quyện
lẫn vào nhau, trang nghiêm thù thắng tự nhiên). Mấy câu này sẽ
được nói cặn kẽ trong phần kinh văn phía
sau. Chúng ta trông thấy, có thể cảm nhận đức
Phật phóng quang, trong quang minh biến hóa, màu sắc của
các tia sáng hòa quyện lẫn nhau, các tia sáng chiếu rọi
lẫn nhau, đẹp khôn kể xiết! Tiếp đó bèn
nói: “Tự nhiên tối thắng”.
Sự tự nhiên này do Tánh Đức vốn là như thế
đó. Các nhà khoa học hiện thời đã nói: Tất cả
các hiện tượng trong vũ trụ sanh diệt đều
chẳng lìa khỏi ý niệm. Điều này giống
như Tướng Tông thường nói: “Duy thức sở biến”. Hãy đặc biệt
chú ý chữ Duy. Duy (唯) là chỉ có một
mình. [Duy Thức là] trừ Thức ra, thứ gì cũng chẳng
có. Thức là gì? Thức là ý niệm. Duy thức sở biến
(chỉ do thức biến) thì giới hạn trong mười
pháp giới; ngoài mười pháp giới là Nhất Chân pháp
giới, là cõi Thật Báo Trang Nghiêm của Phật và đại
Bồ Tát. Cảnh tượng trong ấy hễ đã thành
tựu bèn chẳng thay đổi, nên gọi là Nhất
Chân, bất biến! Con người [trong cõi Thật Báo] sống
thọ vô lượng, mà cũng chẳng già suy, vĩnh viễn
là dáng vẻ trẻ trung, bất biến. Vì sao? Họ chẳng
có thức, thức là gì? Phân biệt, chấp trước,
họ chẳng có. Không chỉ chẳng có phân biệt, chấp
trước, ngay cả khởi tâm động niệm
cũng chẳng có. Sở dĩ Nhất Chân pháp giới hiện tiền là do tập khí vô thỉ
vô minh biến hiện, khoa học hiện thời chẳng
phát hiện hiện tượng này. Thật ra, khoa học
hiện thời cũng rất lỗi lạc, đã nói
đến A Lại Da, [A Lại Da là] nguyên khởi của
y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Họ
có thể nêu ra chân tướng sự thật, chẳng khác
gì Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong kinh Đại Thừa
từ ba ngàn năm trước. Khoa học đã chứng
minh, giải thích cho chúng ta biết cảnh giới chứng
đắc của chư Phật, Bồ Tát.
Trong
đoạn văn này, lão cư sĩ nói: “Như Pháp Hoa Kinh Tự Phẩm viết: Mi gian bạch
hào, đại quang phổ chiếu” (như trong phẩm Tự
của kinh Pháp Hoa chép: “Từ
tướng bạch hào giữa mày có ánh sáng lớn
chiếu khắp”). Trong phẩm Tự của kinh Pháp Hoa, đức Phật
phóng quang từ tướng bạch hào. Trong các kinh điển,
bạch hào phóng quang được nhắc tới nhiều
nhất, cũng là thường thấy nhất, quang minh to
lớn chiếu trọn khắp. “Cố tri ‘hiện đại quang minh’, tức bỉ
chi đại quang phổ chiếu. Cố tri Ngụy dịch
trung chi ‘oai thần quang quang’ diệc ưng đồng thử,
hàm biểu Phật chi oai quang minh diệu quảng đại,
vô năng tỷ giả” (Do vậy biết “hiện đại quang minh” chính là “đại
quang phổ chiếu” trong kinh ấy. Vì vậy, câu “oai
thần rạng ngời” trong bản Ngụy dịch
cũng tương đồng với câu này, cùng biểu
thị quang minh oai thế chiếu soi rạng ngời
của đức Phật rất rộng lớn, không gì
sánh nổi). Phật, Bồ Tát phóng quang, quang minh ấy do
đâu mà có? Từ trong trí huệ Bát Nhã
vốn sẵn có trong tự tánh mà ra. Tìm kiếm căn
nguyên của nó, căn nguyên ấy có sẵn trong tự tánh.
Nó hiện tướng là phóng quang; người hiện thời
nói [phóng quang] là hiện tượng vật lý,
nhưng nó chẳng phải là vật lý, mà là Tánh Đức.
Chúng ta nói là “quang”, giống như ánh sáng mặt trời,
còn nói “điện”, tức “thiểm điện” (閃電: tia chớp) thì là hiện tượng vật lý. Phật,
Bồ Tát phóng quang là hiện tượng từ tự tánh,
hoàn toàn chẳng giống hiện tượng vật lý. Ánh
sáng thuộc hiện tượng vật lý có thể tổn
thương con người, Phật quang nhu hòa, chẳng tổn
hại con người. Phật quang chẳng nhức mắt,
mà nhu hòa. Dẫu quang minh sáng đến mấy, vẫn chẳng
tổn hại mắt.
Tiếp
đó, sách viết: “Chí ư sổ
thiên bách biến, tắc đồng ư bổn kinh Thọ
Lạc Vô Cực phẩm” (Còn
như câu “mấy
trăm ngàn thứ biến hiện” thì giống như trong
phẩm Thọ Lạc Vô Cực của kinh này), câu này được
nói trong phẩm ba mươi hai: “Tự
nhiên quang sắc tham hồi, chuyển biến tối thắng”
(tự nhiên màu sắc của từng tia quang minh hòa quyện
vào nhau, chuyển biến tối thắng), có hai câu ấy.
Chúng ta hãy đặc biệt chú ý chữ “tự nhiên”. “Tự
nhiên” là nói rõ: Chẳng có khởi tâm động niệm,
chẳng có phân biệt, chấp trước. Sở dĩ
quang minh hiện tướng, nhất định là do cảm
ứng. Chúng sanh có cảm, Phật tự nhiên có ứng. Từ
điểm này, chúng ta cũng có thể hoàn toàn lãnh hội:
Phật vì hết thảy chúng sanh mà thị hiện đủ
mọi thân tướng, đáng nên dùng thân gì để
độ, bèn hiện thân ấy, quyết định là chẳng
có nghĩ ngợi gì! Chẳng có ý niệm! Ý niệm là Thức.
Chẳng có A Lại Da Thức, hoàn toàn do tự tánh lưu lộ.
Chúng sanh cảm, sự cảm ấy có sức mạnh to lớn
dường ấy, có thể khiến cho trí huệ và đức
năng trong tự tánh hiện đủ mọi tướng,
các thứ tướng ấy trọn đủ mấy
trăm ngàn thứ biến hóa. Thấu hiểu mấy
trăm ngàn thứ biến hóa ấy từ chỗ nào? Thật
khó! Chúng ta rất may mắn, sanh trong thời đại
này, do gặp gỡ Lượng Tử Lực Học nên
chúng ta hiểu rõ. Chẳng gặp Lượng Tử Lực
Học, sẽ chẳng hiểu Phật pháp, giống
như Di Lặc Bồ Tát dạy: Trong một cái khảy
ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm; đó
là “mấy trăm ngàn thứ biến hóa”, vì mỗi niệm
đều chẳng giống nhau. Xưa kia, để giải
thích ý nghĩa này, chúng tôi đã nói là một tướng
tương tự liên tục. Vì sao? Hoàn toàn chẳng phải
là tương đồng, hai ý niệm hoàn toàn chẳng
tương đồng, nhưng một niệm sanh diệt
quá nhanh. Quý vị hãy ngẫm xem: Đối với một
cái khảy ngón tay, các đồng học chúng ta đã tính
toán, trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu niệm? Ba
trăm hai mươi triệu niệm, mỗi niệm
đều khác nhau, một cái khảy ngón tay đấy nhé!
Kinh nói là “mấy trăm ngàn thứ biến hóa”. Vì tích
lũy nhiều ngần ấy, nên mới sanh ra hiện
tượng. Chúng ta có thể cảm nhận hiện tượng
vật chất và hiện tượng tinh thần. Hiện
thời, các nhà khoa học phát hiện Lượng Tử,
còn gọi là tiểu quang tử, biết nó là chuyện
như thế nào: Ý niệm tích lũy liên tục, phát sanh
huyễn tướng. Nói cách này, chúng ta dễ hiểu. Trên
thực tế, hoàn toàn giống như Di Lặc Bồ Tát
đã nói, mà cũng là nói rõ: Chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh do đức Phật đã thấy từ ba ngàn
năm trước đến nay đã được các
nhà khoa học chứng thực, là thật, chẳng giả!
Liễu
giải chân tướng sự thật thì quý vị mới
có thể thật sự buông xuống. Vì sao chẳng thể
buông xuống? Do chẳng liễu giải chân tướng.
Nay chúng ta có thật sự liễu giải hay chăng? Chẳng
có! Vì sao? Nay chúng ta chỉ nghe nói mà thôi, biết là có chuyện
như thế đó, vì sao vẫn chẳng thể buông xuống?
Làm thế nào để chứng tỏ quý vị thật sự
liễu giải? Thật sự buông xuống, chứng tỏ
quý vị thật sự hiểu rõ. Chẳng buông xuống,
chứng tỏ quý vị vẫn chưa thật sự hiểu
rõ. Trong bài kệ Hồi Hướng có câu: “Nguyện đắc trí huệ chân minh liễu”
(nguyện đạt được trí huệ thật sự
hiểu rõ), trí huệ ấy là trí huệ Bát Nhã trong tự
tánh. Trí huệ ấy mà khai, quý vị sẽ thật sự
hiểu rõ. Thật sự hiểu rõ, sẽ thật sự
buông xuống, ngay cả ý niệm trong tâm cũng chẳng tồn
tại thì mới là thật sự buông xuống. Có lúc vẫn
khởi tâm động niệm thì chưa được!
Chưa buông xuống! Buông xuống chẳng dễ dàng,
cũng có nghĩa là chẳng dễ gì thật sự hiểu
rõ! Hiểu biết nửa vời thì được, chứ
thật sự hiểu rõ ràng thấu triệt khó lắm! “Cố tri Ngụy dịch trung
chi oai thần quang quang diệc ưng đồng thử”
(vì thế biết câu “oai thần rạng ngời” trong bản
Ngụy dịch cũng phải giống như câu này), có
cùng một ý nghĩa, đều là biểu thị oai quang của
Phật, tức là quang minh oai đức của Ngài chiếu
soi rộng lớn, chẳng gì có thể sánh bằng!
“Tự
nhiên quang sắc tham hồi, chuyển biến tối thắng”
(tự nhiên màu sắc của từng tia quang minh hòa quyện
vào nhau, chuyển biến tối thắng), sự chuyển
biến tối thắng ấy chính là điều thứ
hai trong ba thứ trọn khắp như sách Hoàn Nguyên Quán
đã nói, từ trọn khắp pháp giới, “xuất sanh vô tận”. Xuất
sanh vô tận là thuận theo ý niệm, là A Lại Da; nói cụ
thể, sẽ là y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới đồng thời xuất hiện. Kế
đó là nói: “Đồng biểu
Phật quang tự nhiên giao tham hồi chuyển, quang sắc
biến hóa dũ biến dũ thắng, vô hữu cùng cực”
(cùng biểu thị
Phật quang tự nhiên hòa quyện vào nhau, xoay chuyển,
màu sắc của quang minh biến hóa, càng biến hóa càng thù
thắng chẳng cùng cực). Khi khai ngộ, Lục Tổ Huệ
Năng đại sư đã nói: “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”, đây cũng là nói tới y
báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Lớn
thì chúng ta nói đến thế giới Hoa Nghiêm, nhỏ thì
chúng ta nói đến cảnh giới trước mắt,
càng biến hóa càng thù thắng, chẳng có cùng tận. “Chẳng
có cùng tận” rất khó hiểu, đấy là Tánh Đức,
nó biến hóa đúng là chẳng có cùng tận, rất khó
tưởng tượng. Câu kinh văn này khiến cho chúng
tôi nghĩ đến lúc bé chơi kính vạn hoa rất giống
chuyện này. Kính vạn hoa cấu tạo hết sức
đơn giản; từ đó, quý vị có thể thấy
hai câu này, càng biến hóa càng thù thắng, chẳng có cùng tận.
Ngay cả kính vạn hoa mà còn hiển thị cảnh giới,
huống hồ tự tánh. Tự tánh là một ống kính vạn
hoa lớn.
“Tôn giả A Nan, tức tự
tư duy” (Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ), “tôn giả A Nan nãi bổn kinh chi
đương cơ” (tôn giả A Nan là đương
cơ của kinh này). Đương cơ của bộ
kinh này là hai vị, nửa bộ trước là tôn giả
A Nan, nửa bộ sau là Di Lặc Bồ Tát, biểu thị
ý nghĩa rất sâu về mặt pháp. Ngài A Nan biểu thị
pháp vận một vạn hai ngàn năm của Thích Ca Mâu Ni
Phật. A Nan truyền thừa giáo học và giáo pháp của
đức Phật, Di Lặc Bồ Tát biểu thị
đức Phật kế tiếp. Di Lặc Bồ Tát hiện
đang ngự trên trời Đâu Suất, tu gì? Tu tri túc, tri
túc thường lạc. Đâu Suất có nghĩa là Tri Túc,
Ngài tu tri túc ở đấy. Thật sự tri túc thì mới
có thể làm Phật. Kẻ chẳng tri túc sẽ chẳng
thể thành Phật, ý nghĩa biểu thị pháp rất
sâu. Tri túc đến mức độ nào? Tri túc đến
mức vô cầu, thật sự chẳng tranh cùng người,
chẳng cầu nơi đời, thật sự tri túc, mảy
may ý niệm đều chẳng có! Cuộc sống thì sao?
Sống cuộc đời hoàn toàn tùy duyên, chẳng có gì
không tốt. Trong cảnh giới, xác thực chẳng khởi
tâm, không động niệm. Khởi tâm động niệm
còn chẳng có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước?
Chúng ta phải hiểu rõ, phải học tập điều
này, ý nghĩa biểu pháp trong kinh này quá sâu!
Di Lặc
Bồ Tát đến thành Phật trong thế gian này, thời
gian còn rất dài. Kinh nói là năm mươi bảy ức
sáu ngàn vạn năm sau, Ngài mới từ trời Đâu Suất
giáng hạ. Thời gian chẳng có Phật rất ư là
dài, nếu Phật, Bồ Tát chẳng quan tâm tới các
chúng sanh khổ nạn, tâm từ bi ở chỗ nào? Phật,
Bồ Tát đại từ đại bi, cảm ứng
đạo giao cùng hết thảy chúng sanh khổ nạn.
Chỉ cần chúng sanh có cảm, các Ngài bèn hiện, hiện
thân gì vậy? Thân Địa Tạng Bồ Tát. Địa
Tạng là gì? Cần phải biết: Pháp môn Địa Tạng
biểu thị lòng hiếu thảo đối với cha mẹ,
tôn trọng thầy. Nói đơn giản là hiếu kính. Hiếu
kính là làm người, sanh lên cõi trời, đó là cội gốc
to tát để thành Phật. Quý vị chẳng thể tiếp
nhận Phật pháp, khi Phật chẳng trụ thế, bèn
dùng gì để giáo hóa nhân dân? Dạy họ hiếu kính. Có
thể làm được hai chữ này khó có lắm, người
ấy đời đời kiếp kiếp chẳng đọa
trong ba ác đạo, có thể giữ vững thân người.
Trong tương lai, Di Lặc Bồ Tát xuất thế,
người ấy có duyên phận, tức là có duyên phận
với Di Lặc Bồ Tát, sẽ tham dự ba hội Long
Hoa. Pháp hội của Di Lặc Bồ Tát vô cùng rộng lớn,
chẳng giống Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật
có tất cả hơn ba trăm hội, hơn ba trăm hội
to nhỏ, Di Lặc Bồ Tát chỉ có ba hội. Chúng ta có
thể lý giải, thời gian của ba hội ấy rất
dài, trong mỗi hội chắc chắn có rất nhiều hội
nhỏ thì Ngài mới có thể độ hết những
chúng sanh hữu duyên. Phàm là những người tu hành chẳng
đạt thành tựu trong thời đại Thích Ca Mâu Ni
Phật, chẳng chứng quả, trong tương lai đều
có thể tham dự ba hội Long Hoa, vì sao? Nay quý vị
đã gieo thiện căn nơi Thích Ca Mâu Ni Phật, vẫn
chưa thể thành tựu trong thời mạt pháp thuộc
pháp vận Thích Ca Mâu Ni Phật, vậy thì quý vị sẽ
thành tựu trong pháp hội của Di Lặc Bồ Tát. Mỗi
vị Phật đều kế tục nhau độ chúng
sanh, từ bi đến tột bậc!
Chúng
ta phải hiểu: Đáng thương nhất là gì? Chính là
đời đời kiếp kiếp chẳng thấy Phật
pháp, chẳng nghe Phật pháp, trong A Lại Da Thức chẳng
có chủng tử Phật pháp, thật sự đáng
thương! Người ấy chẳng có thiện
căn. Nếu trong một đời có thể nghe một
lần, nghe một câu A Di Đà Phật, liền gieo thiện
căn trong A Lại Da Thức. Vì thế, chúng ta phải hiểu
rõ đạo lý này, phải liễu giải chân tướng
sự thật này, niệm niệm chẳng quên giúp đỡ
hết thảy chúng sanh khổ nạn, dùng phương pháp
gì để giúp đỡ họ? Niệm Phật. Đối
với hết thảy các động vật nhỏ, chúng
ta thấy muỗi, trùng, kiến, bèn chắp tay “A Di Đà Phật”, gieo thiện
căn cho chúng. Nhiều đời nhiều kiếp sau, chúng
nó sẽ nhờ vào một câu A Di Đà Phật ấy mà
đắc độ, ai gieo thiện căn ấy cho chúng?
Quý vị gieo cho chúng. Người học Phật chẳng
bỏ uổng ngày nào, niệm niệm chẳng bỏ lỡ,
đó là gì? Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Lại
còn thù thắng hơn là những chúng sanh mà nhục nhãn của
chúng ta không thấy, họ ở chung quanh chúng ta, có khi chúng
ta cảm nhận được, bèn niệm một câu A Di
Đà Phật hồi hướng cho họ, họ sẽ cảm
ơn. Những công đức tụng kinh, đọc kinh,
giảng kinh của chúng ta hoàn toàn có thể chia sẻ cùng mọi
người. Trong Phật pháp gọi là “hồi hướng”,
danh từ hiện thời là “chia sẻ”, chẳng có ai không
đạt được lợi ích. Thường giữ
cái tâm này, niệm niệm chẳng bỏ, vô lượng
công đức! Tu tập tích lũy công đức trọn
chẳng nhất định phải tốn tiền. Có những
kẻ giàu có, đâm ra chẳng biết tu công đức, những
điều họ đã tu tập là phước đức.
Công đức là Bồ Đề tâm, là thiện duyên, là tâm
yêu thương hết thảy chúng sanh, nguyện tâm chẳng
bỏ chúng sanh, đó là thành tựu công đức của
quý vị. Tâm Bồ Đề của chúng ta cũng
được bồi dưỡng như vậy trong cuộc
sống hằng ngày. Do đó, trong đại hội hoằng
pháp của chư Phật, quý vị cũng giống như
tôn giả A Nan sẽ làm bậc đương cơ của
đại hội.
Tiếp
đó, sách viết: “Nhược
luận kỳ bổn” (nếu luận về Bổn), Bổn,
tức căn bản của A Nan[2], “thật diệc tùng quả
hướng nhân chi Pháp Thân đại sĩ” (cũng thật
sự là bậc Pháp Thân đại sĩ từ quả
hướng đến nhân). Nói rõ ngài A Nan cũng là thị
hiện. Trong hội của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài có thân
phận gì? Sơ Quả Tu Đà Hoàn. Đó là biểu diễn
trên sân khấu. Trên sàn diễn, Ngài có thân phận là Tu Đà
Hoàn, tức Sơ Quả Tu Đà Hoàn. Sau sân khấu Ngài là
gì? Sau sân khấu bèn là Pháp Thân Bồ Tát, bậc Pháp Thân
đại sĩ minh tâm kiến tánh. Từ quả hướng
đến nhân thì tối thiểu chúng ta có thể tin tưởng,
chẳng hoài nghi. Tiếp đó, còn chứng cứ, rất
khó có: “Pháp Hoa kinh trung Phật
cáo Bồ Tát viết: Ngã dữ A Nan đẳng ư Không
Vương Phật sở, đồng thời phát A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. A Nan thường
nhạo đa văn, ngã thường cần tinh tấn. Thị
cố ngã dĩ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề, nhi A Nan hộ trì ngã pháp, diệc hộ
tương lai chư Phật pháp tạng, giáo hóa thành tựu
Bồ Tát chúng” (Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật bảo
các vị Bồ Tát: “Ta cùng nhóm ông A Nan ở chỗ Không
Vương Phật đồng thời phát tâm Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. A Nan thường ưa
Đa Văn, ta thường siêng tinh tấn. Vì vậy, ta
đã đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà A
Nan hộ trì pháp của ta, cũng sẽ hộ trì pháp
tạng của chư Phật trong tương lai, giáo hóa
thành tựu các Bồ Tát”). Chuyện này do chính đức Phật
nói, chẳng giả. Ngài A Nan đúng là Pháp Thân đại
sĩ thừa nguyện tái lai, đến biểu diễn
cho chúng ta thấy. Đức Phật đã nói ra chuyện
quá khứ. Ở đây, “ta”
là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng, Phật Thích Ca cùng “A Nan đẳng”, [ý nói, ngoài A
Nan ra] còn có người khác. “Ư
Không Vương Phật sở” (ở chỗ Không
Vương Phật), Không Vương Phật là tên gọi
chung của hết thảy chư Phật, mỗi vị Phật
đều có thể gọi là Không Vương Phật.
Đây là nói tới sự chứng đắc của Ngài,
chứng đắc lý Nhị Không, tức là mỗi vị
Phật đều chứng đắc Nhân Ngã Không và Pháp Ngã
Không. Ở đây, [Không Vương Phật] là một vị
Phật trong quá khứ. Ngài nói khi ở chỗ Không
Vương Phật, đức Thế Tôn và A Nan đều
cùng tu Bồ Tát đạo, phát Bồ Đề tâm, đồng
thời phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
đó là Bồ Đề tâm. “A
Nan thường nhạo đa văn” (A Nan thường
thích nghe nhiều), tập khí khác nhau. A Nan chuộng nghiên cứu
kinh giáo, có hứng thú hết sức rộng rãi. Nói cách khác,
Ngài tiến bộ khá chậm chạp vì Ngài học quá nhiều
thứ, quá tạp. Thích Ca Mâu Ni Phật thật thà hơn,
thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, nên Thích Ca Mâu Ni Phật
thành Phật trước. “Thường
cần tinh tấn” (thường siêng năng tinh tấn)
là thâm nhập một môn.
Chư
vị phải biết, thành Phật là do từ Giới,
Định, Huệ mà thành tựu, chẳng phải là do học
rộng nghe nhiều mà thành tựu, nhất định phải
biết điều này. Nhưng căn tánh mọi người
khác nhau, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, đối
với người ưa thích học rộng nghe nhiều,
đức Phật mở ra pháp gì? Pháp Tướng Duy Thức,
mở ra môn học ấy. Mở ra môn học ấy là do
chuyên vì loại người thuộc căn tánh đó. Thật
sự là người thật thà, thượng căn lợi
trí, đức Phật mở ra môn Thiền Tông, thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài, mau chóng lắm! Nếu là người
trung hạ căn hoặc hạ hạ căn, có thể
dũng mãnh tinh tấn, đức Phật liền mở ra
Tịnh Độ Tông cho người ấy. Thâm nhập một
môn, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, thành
tựu trong một đời cũng chẳng thua kém kẻ
khác. Hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh, đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là A
Duy Việt Trí Bồ Tát, chẳng thua sút người khác. Do
nguyên nhân gì? Được bổn nguyện và oai thần của
A Di Đà Phật gia trì, trọn chẳng phải là giả.
Lẽ nào A Di Đà Phật vọng ngữ? Điều kiện
quan trọng nhất trong pháp môn này là lòng tin. Quý vị phải
thật sự tin, thật sự nguyện, chẳng thể
có mảy may nghi lự nào, sẽ thành công. Nếu quý vị
có hoài nghi, có nghi ngại, sẽ chẳng thể thành công,
quý vị hành theo môn này chẳng trót lọt! Tuy chẳng hành
trót lọt, đã gieo thiện căn. Có thiện căn ấy,
quý vị có duyên gặp gỡ pháp môn này. Gặp pháp môn rồi
lại tiếp tục tu, đến giai đoạn nào
đó, thật sự buông xuống, sẽ thành tựu trong
giai đoạn ấy. Trong một đời này, chúng ta
đã hiểu rõ: Buông xuống vạn duyên, nhất tâm chuyên
niệm A Di Đà Phật, sẽ thành tựu trong một
đời này. Đời này niệm Phật chẳng thể
vãng sanh, đời sau hoặc đời sau nữa còn có
duyên phận, còn có thể tiếp tục tu học. Chúng ta
hiểu rõ: “Trong cửa nhà Phật,
chẳng bỏ một ai”. Chư Phật, Bồ Tát hộ
niệm hết thảy chúng sanh còn chu đáo hơn mẹ
hiền chăm sóc con thơ. Ân đức của Phật
chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta thường quên mất
Phật, nhưng Phật chẳng thời khắc nào quên
chúng ta! Chúng ta được chiếu trụ trong Đại
Viên Kính Trí của các Ngài, đó là sự gia trì của đức
Phật đối với chúng ta. Bản thân chúng ta thật
sự là phiền não, nghiệp chướng quá nặng, chẳng
cảm nhận được, nhưng Phật thật sự
gia trì chúng ta.
Ngài
A Nan cũng hết sức khó có, ưa chuộng đa
văn, phát tâm hộ trì Phật pháp. Vì thế, hoằng pháp
và hộ pháp đều chẳng dễ dàng. Quý vị chẳng
thông hiểu Phật pháp, làm sao hoằng pháp, làm sao hộ
pháp? Phật pháp quyết định chẳng thể dùng ý
nghĩa của chính mình để giải thích, [nếu dùng
ý mình để giải thích thì] sai mất rồi! Kể từ
xưa, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế đã xuất
hiện trạng huống ấy, kinh Phật gọi trạng
huống ấy là Tăng Thượng Mạn. Phiền não
rất phiền phức, chướng ngại quý vị khai
ngộ, chướng ngại quý vị chứng quả.
Không chỉ là như thế, thậm chí còn chướng ngại
thiện pháp của quý vị, phiền phức lắm! Vì
quý vị tự cho là đúng, chính mình chẳng có chứng
đắc, ngỡ đã chứng đắc, chẳng liễu
giải, cứ ngỡ đã liễu giải, dạy bảo
người khác như thế, hướng dẫn chúng sanh
sai lầm. Hướng dẫn sai lầm, phải chịu
trách nhiệm nhân quả. Quý vị xem công án của thiền
sư Bách Trượng đời Đường sẽ thấy
có kể một câu chuyện: “Nói lầm một chữ chuyển
ngữ, đọa thân chồn hoang năm trăm đời”.
Vì sao tạo thành hiện tượng ấy? Tăng Thượng
Mạn. Chỗ này cũng ban cho chúng ta một khai thị rất
trọng yếu, học Phật quyết định chớ
nên có tâm ngạo mạn, ngạo mạn là do chính quý vị
không biết. Nếu người ta hỏi quý vị: “Tôi chẳng
có ngạo mạn, rất khiêm hư, không ngạo mạn”, xác
thực là chính người ấy chẳng thể cảm
nhận [chính mình đang ngạo mạn]. Đối trị
ngạo mạn như thế nào? Khiêm hư. Đối trị
ganh tỵ như thế nào? Tùy hỷ. Bồ Tát đều
có phương pháp [để đối trị các tật
xấu ấy]. Căn bệnh rất nặng, quý vị chẳng
có phương pháp đối trị, nó liền khởi tác
dụng, chướng đạo.
Ngài
A Nan hộ trì Phật pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Xưa kia, Ngài là bạn học của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Một vị Phật xuất thế, ngàn đức Phật
ủng hộ, người có duyên với Phật đều
đến giúp Ngài. Hoặc là dùng thân phận Bồ Tát, thân
phận Thanh Văn, làm đệ tử, hoặc kẻ tại
gia hộ pháp của Ngài, khiến cho một đời giáo
học của Ngài được viên mãn. Ngài A Nan cũng hộ
trì pháp tạng của chư Phật trong tương lai,
Ngài nhất định đã phát đại nguyện ấy.
Ở đây, Thích Ca Mâu Ni Phật đã tiết lộ: “Giáo hóa thành tựu Bồ Tát
chúng”. Nói là “Bồ Tát chúng”,
cho thấy ngài A Nan là Đại Thừa, chẳng phải
là Tiểu Thừa. “Nhược
luận kỳ Tích” (nếu luận về Tích của
ngài A Nan), Tích (跡) là thân phận thị hiện
của Ngài trong hiện tiền, “tắc
vi kết tập Kinh Tạng, truyền Phật tâm ấn,
truyền thọ Mật Thừa, thừa truyền đại
giáo chi quan kiện nhân vật” (là nhân vật then chốt
kết tập Kinh Tạng, truyền tâm ấn của Phật,
truyền dạy Mật Thừa, truyền thừa đại
giáo). Thật sự hộ trì, nay chúng ta nói là “hộ pháp”. Hộ pháp chính là
ba chuyện ấy. Kết tập Kinh Tạng: Thuở Thích
Ca Mâu Ni Phật tại thế giảng kinh, giáo học, chẳng
lưu lại văn tự, chẳng có kinh bổn. Kinh do
đâu mà có? Chẳng giống các tôn giáo thông thường.
Các tôn giáo thông thường có rất nhiều kinh điển
từ cõi trời giáng xuống, Phật giáo chẳng phải
vậy. Phật giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên giảng cho
mọi người trong thuở Ngài tại thế. Khi ấy,
chẳng ghi chép bằng văn tự, do đâu mà có kinh
điển? Ngài A Nan trùng tuyên, nhắc lại những kinh
do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói một lượt. Năm
trăm vị Đại A La Hán chứng minh cho Ngài, làm thính
chúng. Nghe những lời A Nan đã nói, mọi người
đồng ý, đều tán thành, thì mới có thể dùng
văn tự để ghi chép, lưu truyền hậu thế,
kinh Phật do như vậy mà có. Nếu có một người
chẳng đồng ý, nói “tôi nghe đức Phật nói câu
này không phải như vậy”, đoạn ấy phải gạt
bỏ, thà thiếu chứ không thừa, nhằm giữ chữ
tín với đời sau. Do đó, kết tập Kinh Tạng
nghiêm ngặt như vậy, chẳng phải là thiểu số
phục tùng đa số. Chẳng phải vậy! Một
người chẳng đồng ý bèn chẳng thông qua!
Đó là kết tập kinh tạng, đó là hộ pháp trong
thuở ấy, khiến cho những gì đức Thế
Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm chẳng đến
nỗi bị tiêu mất!
Cổ
nhân rất dụng tâm, chỉ sợ kinh điển bị
thất truyền, đã khắc kinh điển lên đá,
chứa trong hang núi, gọi là “tàng
chư danh sơn” (cất giữ trong các quả núi danh
tiếng) hòng lưu truyền hậu thế. Năm xưa,
tôi đến Bắc Kinh thăm cụ Hoàng Niệm Tổ,
quen biết hội trưởng hiệp hội Phật
giáo thuở ấy là lão cư sĩ Triệu Phác Sơ. Chúng
tôi nói chuyện hết sức hợp ý, lão cư sĩ bảo
tôi: “Thầy đã tới Bắc Kinh, nhất định
phải đến Phòng Sơn xem kinh đá”. Cụ sai
người lái xe đưa tôi đi thăm, tôi thấy
toàn bộ Đại Tạng Kinh, trong những kinh
được khắc ấy còn có mấy bộ chẳng
có trong Tạng Kinh hiện thời. Quý vị thấy họ
đã sưu tập hoàn chỉnh dường ấy! Nghe nói
những bộ kinh ấy đã khắc trong vòng tám trăm
năm, khắc qua nhiều đời suốt tám trăm
năm, cất trong thạch động tại Phòng Sơn.
Dường như có tất cả bảy động,
[kinh điển được] cất giữ trong bảy
hang động, chữ rất lớn, khắc hết sức
đẹp đẽ. Chúng tôi thấy rất thích, cũng
thấy hết sức cảm động trước dụng
tâm của cổ nhân. Điều này thuộc về truyền
thừa Kinh Tạng, chỉ sợ khi có tai nạn, kinh Phật
bị thất truyền, nên dùng phương pháp ấy. Hiện
thời, thuật ấn loát phát triển, để cho kinh
Phật chẳng đến nỗi bị thất truyền,
tốt nhất là ấn hành với số lượng lớn,
cất giữ các nơi trên cả thế giới. Chúng ta
biết là chắc chắn có tai nạn, nhưng chẳng thể
là toàn thể thế giới có tai nạn, chẳng thể
nào! Nói chung là vẫn có nơi không bị, [kinh Phật] sẽ
được bảo tồn. Vì thế, số lượng
càng nhiều càng an toàn. Khắc vào đá xong xuôi, cất
trong danh sơn, nếu phát sanh động đất, những
kinh ấy bị tiêu hết! Chúng ta chẳng thể không bận
tâm: Nếu bị động đất thì làm như thế
nào đây? Vì thế, ấn hành lưu thông tốt hơn bất
cứ cách nào khác. Sau đấy, có một năm tôi sống
ở Tân Gia Ba, có một vị cư sĩ cúng dường
món tiền năm trăm vạn Mỹ Kim, món tiền ấy
rất đáng kể. Chuyện đầu tiên tôi nghĩ
đến là in thạch kinh ở Phòng Sơn để
lưu thông, có thể in một ngàn bộ. Tôi thương
lượng chuyện này với cục tôn giáo của Trung
Quốc, vẫn chẳng có cách nào thỏa nguyện. Chẳng
phải là đơn vị ấy không đồng ý, mà là cá
nhân chẳng đồng ý. Vì thế, chuyện này chẳng
thể hoàn thành, tiền giữ lại đó chẳng sử
dụng vào đâu được! Năm trước,
Thương Vụ Ấn Thư Quán bắt đầu tái bản
bộ Tứ Khố Toàn Thư, tôi nghĩ đây cũng là
chuyện tốt lành, bèn mua từ Thương Vụ Ấn
Thư Quán một trăm bộ, mỗi bộ là năm vạn
Mỹ Kim, một trăm bộ là năm trăm vạn,
dùng hết số tiền ấy. Hiện thời, sách
đã in xong, chúng tôi biếu tặng quốc nội và hải
ngoại, đó là quốc bảo của Trung Quốc. Bản
gốc được Thương Vụ Ấn Thư Quán
của Đài Loan sử dụng là từ Văn Uyên Các[3], tức
là bộ được biên chép tốt nhất trong bảy
bộ thuở ấy, cất giữ trong hoàng cung. Tuy chẳng
phải là in sách Phật, nhưng đó là truyền thống
văn hóa Trung Hoa. Văn hóa truyền thống Trung Hoa là
cơ sở [để học hỏi] Phật pháp. Chẳng
có truyền thống văn hóa Trung Hoa, học Phật nhất
định phải tạo lập cơ sở vững vàng
từ Tiểu Thừa. Trong tương lai, tại đạo
tràng này sẽ cất giữ một bộ. Vì thế, phải
thường nghĩ làm thế nào để có thể bảo
tồn Phật pháp lâu dài? Hiện thời, tuy khoa học kỹ
thuật phát triển, chúng ta hãy nghĩ, nếu vạn nhất
có một ngày đại tai nạn hủy sạch khoa học
kỹ thuật, chẳng có điện thì sẽ làm như
thế nào đây? Computer, đĩa CD/DVD đều chẳng
dùng được, đều biến thành phế vật!
Có thể như vậy hay không? Có thể lắm chứ! Vì
thế, phương pháp thật sự vẫn là in thành sách
tốt hơn, lưu thông với một số lượng
lớn. Đó là truyền kinh điển.
“Truyền Phật tâm ấn”:
Đây là Thiền Tông. Tôn giả A Nan là tổ sư đời
thứ hai của Thiền Tông. Sơ Tổ Thiền Tông là
tôn giả Ca Diếp. Ngài Ca Diếp truyền cho ngài A Nan;
trong Thiền Tông, ngài A Nan là Nhị Tổ. Quý vị thấy
“truyền Giáo, truyền Tông”,
Tông là Thiền Tông. Không chỉ là như vậy, Ngài còn truyền
dạy Mật Tông, nên Ngài là nhân vật then chốt truyền
thừa đại giáo của Thích Ca Mâu Ni Phật. Tiếp
đó là nói tới kinh điển Mật Tông. Trong Liên Hoa
Sanh Đại Sĩ Ứng Hóa Nhân Duyên Kinh có nói: “Mật Giáo Sơ Tổ Liên Hoa
Sanh đại sĩ tùng A Nan thọ Thích Tôn dự chúc truyền
phó chi Mật Pháp” (Sơ Tổ Mật Giáo là đại
sĩ Liên Hoa Sanh đã từ ngài A Nan nhận lãnh sự phó
chúc truyền thừa Mật Pháp của đức Thích Ca).
Thích Ca Mâu Ni Phật đã đem Mật Pháp truyền sẵn
cho ngài A Nan, để ngài A Nan truyền lại cho Liên Hoa
Sanh đại sĩ, cho thấy Ngài xác thực là truyền
nhân của Mật Tông. “Hựu
Thai Tạng Giới Mạn Đà La Sao tam viết: A Nan mật
hiệu Tập Pháp Kim Cang” (Sách Thai Tạng Giới Mạn
Đà La Sao, quyển ba viết: “Ngài A Nan có mật hiệu
là Tập Pháp Kim Cang”), Mật là Mật Tông. Trong danh hiệu
của Mật Tông, tôn giả A Nan có hiệu là Tập Pháp
Kim Cang. “Thử hựu hiển
A Nan chi Bổn, cái Kim Cang tức Phật dã” (điều
này lại hiển thị Bổn của A Nan, vì Kim Cang chính
là Phật). Mật Tông gọi Kim Cang là Phật, [A Nan]
đã thành Phật. “Cố tri A
Nan hộ trì Phật pháp thị kỳ bổn nguyện”
(do vậy, A Nan hộ trì Phật pháp chính là bổn nguyện
của Ngài). Trong lúc tu nhân, trong khi tu hành, Ngài đã phát nguyện
hộ trì Phật pháp, hết sức yêu mến Phật
pháp. Điều này có mối quan hệ với tập khí
đời đời kiếp kiếp trong quá khứ. “Hiện tắc thị hiện
vi Phật thị giả” (nay thì thị hiện làm thị
giả của đức Phật), lần này, Thích Ca Mâu Ni
Phật xuất hiện trên thế gian, Ngài đến thị
hiện làm thị giả của đức Phật. “Tục Phật huệ mạng,
kế vãng khai lai, cố ư bổn kinh đương
cơ” (tiếp
nối huệ mạng của Phật, tiếp nối quá
khứ dẫn đến tương lai. Do vậy, trong
kinh này, Ngài là đương cơ), điều này chỉ rõ ngài
A Nan và Tịnh Tông có duyên hết sức sâu đậm.
Đức Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ, Ngài
là người khải thỉnh đầu tiên. Thấy
đức Phật phóng quang, hiện tướng lành, Ngài
liền thay mặt đại chúng hướng về đức
Phật thỉnh pháp, khiến cho đức Phật nói ra
pháp môn này. “Nãi năng thiện
tự tư duy, phát thử diệu vấn” (bèn có thể
tự khéo tư duy, nêu ra câu hỏi hay khéo này). Khá nhiều
kinh giáo đều do có người khải thỉnh rồi
đức Phật mới nói. [Những kinh] không có ai khải
thỉnh, mà đức Phật tự nói, rất ít, không nhiều
lắm, nhưng đức Phật Thuyết A Di Đà Kinh
là không có ai hỏi mà tự nói, không có ai khải thỉnh.
Không có ai khải thỉnh mà đức Phật cũng nói
là do thấy duyên của chúng sanh đã chín muồi, đức
Phật bèn tuyên bố pháp môn ấy, giảng giải cùng mọi
người. Mọi người có thể tin, có thể hiểu,
có thể hành, có thể chứng, đó gọi là “duyên của chúng sanh chín muồi”.
Tuy chẳng có ai khải thỉnh, đức Phật
cũng nói ra. Kinh như vậy, đức Thế Tôn trong bốn
mươi chín năm giảng kinh thuyết pháp có nói,
nhưng không nhiều lắm.
“Sắc thân chư căn, duyệt
dự thanh tịnh” (Các căn nơi sắc thân, vui
sướng thanh tịnh). Trong hai câu kinh văn này, chữ “chư căn” chỉ sắc
tướng, tức là thân thể chúng ta, năm căn
nơi thân thể là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.“Duyệt dự” (悅豫) là vui sướng. “Thanh
tịnh, Gia Tường Sớ viết: Quang hiển dã”
(Thanh tịnh: Gia Tường Sớ giảng: “Sáng ngời,
rõ rệt”), dùng “sáng ngời, rõ rệt” để giải
thích thanh tịnh. “Hựu Bảo
Tích kinh viết: Như Lai thân giả, tự tánh thanh triệt,
hà dĩ cố? Như Lai cửu dĩ viễn ly nhất
thiết phiền não chư cấu uế cố” (Kinh Bảo
Tích lại chép: “Thân
Như Lai tự tánh trong trẻo, vì cớ sao? Vì Như Lai từ
lâu đã xa lìa hết thảy phiền não và các cấu
uế”).
Há có lẽ nào thân Phật chẳng thanh tịnh? Phiền
Não Chướng và Sở Tri Chướng hoàn toàn đều
đoạn hết; vì thế, thân tâm thanh tịnh. Trong kinh
giáo thường tán thán chư Phật Như Lai là “Kim Cang bất hoại thân”.
Kim Cang hình dung sự kiên cố, trong bất hoại còn có
thanh tịnh. Trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta đọc
thấy đức Phật nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”, thân này là tướng hảo. Nói cách
khác, thân mỗi người và thân Phật chẳng khác. Thân
gì vậy? Thân hiện tiền, tức là cái thân hiện tại
của chúng ta và thân Phật chẳng khác gì nhau. Nơi chúng
ta đang sống và Tịnh Độ chẳng khác gì nhau.
Trong Hệ Niệm Pháp Sự, thiền sư Trung Phong
đã nói: “Thân ta chính là A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật chính là thân ta”.
“Phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ
chính là phương này”, nói
như vậy là đúng, chẳng hề nói sai. Vì sao? Vì các
Ngài đã đoạn hết tập khí phiền não, nên thân
tâm thanh tịnh hiện tiền. Nỗi phiền phức của
chúng ta trong hiện thời là gì? Bị nhuốm bẩn:
Thân bị tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê nhuốm bẩn, tâm bị tham, sân, si, mạn, nghi nhuốm
bẩn, đạo lý là như thế đó. Nếu buông
tham, sân, si, mạn, nghi trong tâm xuống, buông tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp nơi thân xuống, quý vị và
Phật sẽ chẳng khác gì nhau. Thân Phật và thân chúng
sanh không hai, không khác. Lời này là thật, chẳng giả.
Lục
đạo chúng sanh một thân lắm bệnh, bệnh do
đâu mà có? Tham, sân, si, mạn, nghi là gốc bệnh của
quý vị, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê là ngoại duyên khiến quý vị bị nhiễm bệnh.
Mừng, giận, buồn, vui là nội duyên khiến quý vị
bị nhiễm bệnh. Nhân duyên trọn đủ, quý vị
bị bệnh, đạo lý là như thế đó. Rất
khó đoạn cái nhân, đó là tập khí phiền não, chẳng
dễ đoạn. Đoạn được, quý vị sẽ
chứng quả! Nếu có thể đoạn hết duyên,
đoạn duyên như thế nào? Đức Phật dạy
chúng ta lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy;
quý vị có thể chịu khổ, có thể trì giới,
thân tâm thanh tịnh, sẽ được tự tại. Nếu
nói: “Thật sự buông xuống ngũ dục, lục trần,
buông thất tình ngũ dục xuống, con người
đúng là chẳng có gì vui sướng, học Phật
để làm cái quái gì?” Đức Phật đã nêu
gương, học Phật là lìa khổ, được
vui. Những gì là khổ? Thất tình ngũ dục là khổ,
thân tâm quý vị chẳng khỏe mạnh, thân tâm bị nhiễm
ô. Đức Phật dạy chúng ta toàn là những lẽ thật,
chẳng giả tí nào, bản thân chúng ta phải biết, phải
hiểu rõ. Vì thế, phải học thân Như Lai tự
tánh trong trẻo, chúng ta phải học theo Phật xa lìa hết
thảy phiền não. Kiến Tư phiền não, Trần Sa
phiền não, Vô Minh phiền não thảy đều buông xuống.
“Như Lai thân giả, xuất quá
thế gian, hà dĩ cố? Bất vị thế pháp chi sở
nhiễm ô cố” (Thân Như Lai vượt trỗi thế
gian, vì cớ nào? Chẳng bị nhiễm bẩn bởi
pháp thế gian). Quý vị chẳng còn bị ô nhiễm bởi
tất cả các pháp thế gian. Chẳng bị ô nhiễm
thì có hai biện pháp:
1) Phương
pháp nông cạn là chúng ta xa lìa, không tiếp xúc nó. Đó là biện
pháp trị đằng ngọn, chẳng phải là trị
tận gốc.
2) Nếu có Thiền
Định sâu, chúng ta tu học bất cứ pháp môn nào
cũng đắc tam-muội, từ ngay nơi tướng
mà lìa tướng, xa lìa ở một mức độ càng
sâu hơn. Chẳng có tâm xa lìa mà trong hết thảy các pháp,
tự nhiên chẳng khởi tâm không động niệm,
đó là thật sự lìa.
“Nãi chí Như Lai thân giả, như tịnh kính trung vi
diệu chi tượng, như tịnh thủy trung minh mãn
chi nguyệt” (cho đến thân Như Lai như hình ảnh vi diệu
trong gương trong sạch, như mặt trăng tròn sáng
trong nước sạch). Đây là tỷ dụ, rất giống
với hình ảnh được chiếu bởi tấm
gương sạch làu, hình ảnh hiển hiện trong
gương. Lại giống như trong nước sạch,
nước ấy sạch sẽ, chẳng nổi sóng,
trăng hiện bóng trong nước. “Tổng thượng dẫn chứng, kinh văn
thích vi: Đương thời Thế Tôn, nhãn đẳng
ngũ căn, đồng hiện hỷ dung” (Tổng hợp những điều
vừa dẫn trên đây, có thể giải thích kinh văn
như sau: Lúc ấy, đức Thế Tôn nơi năm
căn như mắt v.v... đều hiện vẻ vui
sướng), nói rõ vì sao đức Phật phóng quang? Vì sao hiện
tướng hoan hỷ ấy? Hoan hỷ! “Tâm trung an lạc, diệu tướng thanh triệt”
(Trong lòng an lạc, diệu tướng trong sáng, rạng
ngời). Cổ nhân nói là “người
gặp việc vui sướng, tinh thần sảng khoái”.
Khi đức Phật hiện tướng ấy, chúng ta biết
là do tâm Phật biểu hiện ra, những điều này
đều thuộc về thị hiện, trong lòng an lạc,
diệu tướng bèn trong sáng, rạng ngời. “Như kính trung ảnh, như thủy
trung nguyệt” (như ảnh trong gương, như
trăng trong nước), ảnh trong gương và bóng
trăng trong nước bao hàm ý nghĩa sâu xa “bất tức, bất ly” (chẳng
phải chính là, mà cũng chẳng phải là tách lìa), vừa
không, vừa có. Có và Không chẳng hai!
“Quang minh viên mãn, tịnh nhược
vô hình, hòa duyệt hoan hỷ, thanh tịnh trang nghiêm”
(quang minh viên mãn, trong
sạch như không có hình chất, hoan hỷ, sung
sướng, thanh tịnh trang nghiêm), đây là lý do vì sao
đức Phật an lạc, vui sướng? “Tịnh Ảnh Sớ viết: Hỷ hữu nhị nghĩa” (Tịnh Ảnh
Sớ nói: “Hỷ có hai nghĩa”), giải thích cho chúng ta biết
đức Phật hoan hỷ là có hai ý nghĩa biểu thị
pháp:
1) “Niệm Di Đà Phật sở thành hạnh đức
khả khánh, cố hỷ” (nghĩ đến hạnh
đức đã thành tựu của Phật Di Đà
đáng vui mừng, nên hoan hỷ). Đây là Phật niệm
Phật. Trong phần trước, ngài A Nan đã hỏi:
“Nay đức Phật hoan hỷ, có lẽ nhất định
là niệm Phật, niệm quá khứ hay vị lai Phật,
hay niệm đức Phật ở phương khác trong hiện
tại?” Ngài A Nan từng hỏi câu ấy. Vì thế, ở
đây chỉ rõ: Niệm A Di Đà Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật
nghĩ tới hạnh đức đã thành tựu của
A Di Đà Phật đáng vui mừng nên hoan hỷ.
2) “Niệm chúng sanh đắc ích thời chí, cố hỷ”
(Nghĩ chúng sanh đã đến lúc được lợi
ích nên hoan hỷ). Duyên của chúng sanh với Tịnh Độ
đã chín muồi, cũng có nghĩa là chúng sanh có thể tiếp
nhận pháp môn này. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong
thế giới này, nói theo thực tế, mục đích thật
sự là để tuyên dương pháp môn này.
Ai đã nói lời
ấy? Thiện Đạo đại sư vào thời
Đường đã nói. Thiện Đạo đại
sư là tổ sư đời thứ hai của Tịnh
Độ Tông. Ở chỗ này, phải nói kèm thêm cho rõ với
các đồng học. Tổ sư Tịnh Độ Tông
chẳng phải là đời đời truyền cho nhau,
chẳng phải là truyền thừa, mà là dân chủ. [Các vị
tổ sư Tịnh Độ Tông] được mọi
người công nhận, chọn lựa, chẳng phải
là truyền thừa từng thế hệ một. Vào thời
đại ấy, vị đại đức đó tu học,
hộ trì Tịnh Độ Tông hữu lực nhất, có
thành tựu nhất, người đời sau bèn chọn
Ngài làm Tịnh Tông tổ sư, chẳng phải là truyền
thừa. Do đó, Tịnh Tông đến hiện thời chỉ
có mười ba đời. Quý vị thấy mỗi tông
phái đều có mấy chục đời, tối thiểu
cũng là bảy, tám mươi đời, Tịnh Tông mới
là mười ba đời. Thời đại nào chẳng
có người [phù hợp tiêu chuẩn] bèn chẳng chọn.
Do đó, [tổ sư Tịnh Độ] là do dân chủ mà
có, nhất định được mọi người
công nhận. Không dễ dàng! Duyên thành tựu của chúng
sanh đối với Tịnh Độ chẳng dễ
dàng, lẽ nào đức Phật chẳng hoan hỷ? Vì sao?
Thành tựu trong một đời.
Vì lẽ
đó, Thiện Đạo đại sư đã nói hai câu:
“Chư Phật sở dĩ xuất
thế, chỉ để nói biển bổn nguyện của
Phật Di Đà”, nêu rõ vì sao chư Phật Như Lai xuất
hiện trên thế gian? Xuất hiện trên thế gian vì
chuyện gì? Vì chuyện này, giới thiệu pháp môn Tịnh
Độ cùng mọi người, khuyên mọi người
hãy chân tín, chân nguyện, thật sự niệm Phật,
trong đời này quyết định được sanh
về Tịnh Độ. Người chỉ cần vãng
sanh Tịnh Độ bèn thành Phật, lời này là thật,
chẳng giả! Vì sanh về thế giới Cực Lạc,
dẫu phiền não chẳng đoạn một phẩm nào,
hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Đồng Cư,
đó là mức độ thấp nhất, sanh về thế
giới Cực Lạc, đều được bổn
nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì,
đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ
Tát là thành Phật. Quý vị thấy Thiền Tông nói “đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, đó là hạng
người nào? Đó là A Duy Việt Trí Bồ Tát, kiến
tánh thành Phật. Người ấy (người hạ hạ
phẩm vãng sanh) có kiến tánh hay không? Chẳng kiến
tánh! Cớ sao chẳng kiến tánh mà cũng thành Phật?
Do Phật lực gia trì người ấy, nên thần thông
và đạo lực liền bằng với minh tâm kiến
tánh. Nói cách khác, người ấy có năng lực cảm
ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh. Chúng sanh
có cảm, người ấy có ứng, đáng nên dùng thân
Phật để độ, bèn có thể hiện thân Phật.
Đây là điều chẳng thể nghĩ bàn của Tịnh
Độ, chính là cái được gọi là “pháp khó tin”
trong Tịnh Độ.
Quý
vị nói với kẻ bình phàm trong Giáo Hạ, họ sẽ
lắc đầu, chẳng tin, há có đạo lý ấy! Tức
là chẳng tin tưởng vào sự gia trì do bổn nguyện
và oai thần của A Di Đà Phật, cho nên khó tin. Khó tin
mà chúng ta có thể tin, nay chúng ta tin tưởng, dựa vào
đâu?
1) Điều thứ
nhất là thiện căn sâu dầy trong đời quá khứ.
Điều này là khẳng định.
2) Điều thứ
hai, nếu thiện căn chẳng đủ sâu dầy,
trong một đời này, do huân tu kinh giáo Đại Thừa
trong một thời gian dài, cũng có thể nâng cao thiện
căn lên tới một mức độ nhất định.
Điều này phải có duyên phận.
Bản thân tôi
đối với Tịnh Tông thiện căn chẳng
đủ sâu dầy. Nếu chẳng có sự huân tu bằng
kinh giáo Đại Thừa trong nhiều năm ngần ấy,
tôi vẫn chẳng tin tưởng, không dễ dàng! Thuở
trẻ, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam dạy tôi Tịnh
Độ, khuyên dạy tôi hãy nghiêm túc học tập, tôi chẳng
dám chống trái thầy, nhưng chẳng làm theo. Đi theo
con đường của ngài A Nan, chẳng nghiêm túc tu tập
mà cứ học rộng nghe nhiều, hết sức ưa
thích kinh giáo, nhất là đối với Hoa Nghiêm và Lăng
Nghiêm. Tôi kể cùng chư vị đoạn lịch sử
này.
Tôi
tin tưởng Tịnh Độ là nhờ Hoa Nghiêm và
Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm là khóa trình chủ tu của
tôi thuở trẻ. Tôi nhớ đã giảng bảy lần,
nhưng trong bảy lần chỉ có hai lần giảng
viên mãn, năm lần khác chẳng giảng viên mãn. Về
sau, giảng kinh Hoa Nghiêm. Mười mấy năm sau, khi
đã giảng kinh Hoa Nghiêm được một nửa,
đột nhiên có một ngày nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền học pháp môn gì? Kinh Hoa Nghiêm vẫn
chưa nói đến. Trong phần sau, lật đến phần
sau của kinh điển, lật đến quyển ba
mươi chín của Tứ Thập Hoa Nghiêm, trong đó có
nói. Nguyên lai, Văn Thù và Phổ Hiền đều niệm
A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Tịnh
Độ. Lại chú tâm quan sát Thiện Tài đồng tử.
Thiện Tài đồng tử là đệ tử nhập
thất của Văn Thù Bồ Tát, là môn sinh đắc ý,
là truyền nhân của Ngài, sở học và sở truyền
chắc chắn vâng theo thầy, chẳng thể nào khác thầy
được! Chú tâm xem kỹ phần năm mươi
ba lần tham học, quả nhiên chẳng sai! Quý vị thấy:
Vị thiện tri thức đầu tiên, người Hoa
nói “điều gì được
tiếp xúc đầu tiên sẽ là chủ yếu”, là tỳ-kheo
Cát Tường Vân, Ngài tu pháp môn gì? Ban Châu tam-muội, chuyên
tu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đối
với vị thứ nhất, Trung Hoa và Ấn Độ
đều có cùng cách nói “điều
gì được tiếp xúc đầu tiên sẽ là chủ
yếu”, có quan hệ lớn nhất. Vị cuối cùng
trong năm mươi ba lần tham học là Phổ Hiền
Bồ Tát, mười đại nguyện vương dẫn
về Cực Lạc, tôi mới hoảng nhiên đại ngộ:
Thiện Tài đồng tử vốn là chuyên tu Tịnh
Độ, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, thành tựu
trong một đời. Trong ấy, năm mươi ba lần
tham học là khóa trình tu học ắt cần phải có nhằm
hoằng pháp và hộ pháp, chứ để cho chính mình thành
tựu thì một môn là đủ rồi. “Hoằng hộ” (hoằng pháp và hộ pháp) thì hết
thảy đều phải hiểu, hoằng hộ là gì?
Thành tựu Hậu Đắc Trí, không gì chẳng biết.
Khi
nào, Ngài mới đi tham học? Đã đạt được
Căn Bản Trí. Trong hội Văn Thù, Ngài đắc
Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là gì? Kinh Bát Nhã nói “Bát Nhã vô tri”. Sau đó, tham học
là “không gì chẳng biết”,
chính là Hậu Đắc Trí. Hai thứ trí huệ viên mãn thì
mới có thể nói đến chuyện hoằng hộ!
Nhưng học Hậu Đắc Trí thì nhất định
phải là đã đạt Căn Bản Trí; chưa đạt
được Căn Bản, lấy đâu ra Hậu Đắc?
Giống như trồng cây, Hậu Đắc Trí là cành lá.
Chẳng có căn bản, lấy đâu ra cành lá? Khó khăn
lớn nhất của người hiện thời là chẳng
có căn bản mà đã muốn làm chuyện cành lá; do
đó, toàn bộ cành lá đều thất bại. Nói theo Tứ
Hoằng Thệ Nguyện, “phiền
não vô tận thệ nguyện đoạn” là Căn Bản
Trí, “pháp môn vô lượng thệ
nguyện học” là Hậu Đắc Trí, không gì chẳng
biết. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
đã nói rất rõ ràng, rất minh bạch, người biết
học phải y giáo phụng hành. Vì vậy, khi chưa thành
tựu Căn Bản Trí, sở học của chúng ta thảy
đều vì cầu Căn Bản Trí. Trong giai đoạn ấy,
nhất định là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài.
Thâm nhập một môn thì quý vị mới có thể đắc
Định, trong Phật pháp gọi là tam-muội. Sau khi
thành tựu tam-muội, trí huệ liền khai. Trí huệ ấy
là Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là gì? Trong kinh này, chúng
ta nói “thanh tịnh, bình đẳng, giác” là Căn Bản
Trí. Cả ba điều ấy quý vị đều đạt
được, nên quý vị học Hậu Đắc Trí rất
mau chóng, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ toàn bộ. Khi
ấy, học tập vô cùng nhanh chóng, quý vị chẳng có
chướng ngại. Phiền Não Chướng chẳng có,
mà Sở Tri Chướng cũng chẳng có.
Chúng
ta lại xem đoạn kế tiếp: “Quang nhan nguy nguy”, “Quang”
(光) là quang minh, “nhan” (顏) là dung nhan. Vô Lượng Thọ
Kinh Tiên Chú là tác phẩm [chú giải kinh Vô Lượng Thọ]
của cư sĩ Đinh Phước Bảo [đã viết]:
“Phật chi nhan hữu quang”
[nghĩa là] khuôn mặt tỏa ánh sáng, nên gọi là “quang nhan”. “Nguy nguy, cao đại tôn thắng chi mạo” (vòi
vọi là diện mạo cao, lớn, tôn quý, thù thắng). “Gia Tường Sớ viết:
Nguy nguy ngôn đức thịnh, cao hiển” (Chữ “vòi
vọi” ý nói đức nhiều, cao cả, rõ rệt). Phật
là bậc đại đức. Người hiện thời
nói là đức Phật phong độ, dáng vẻ rạng
rỡ, đều nhằm nói tới ý nghĩa “đức
thù thắng, cao cả, rạng rỡ” từ trong nội
tâm phát ra. Người hiện thời chẳng có [phong thái ấy],
nhưng họ dùng cách hóa trang, hoàn toàn là bề ngoài. Đặc
biệt khi lên sân khấu biểu diễn, nhất định
phải hóa trang, khiến cho họ trước ống kính đều
là “quang nhan nguy nguy”, cũng
có tình hình ấy. Vì thế, lên sâu khấu luôn có chuyên viên hóa
trang, có người chuyên nghiệp giúp quý vị, còn ở
đây là tự nhiên. “Tổng
biểu Phật chi đức dung” (Nói chung, câu này diễn tả
vẻ mặt của Phật viên mãn các đức), đức ở
bên trong, dung mạo ở bên ngoài. “Hiển diệu quang minh, siêu ư nhất thiết”
(rạng ngời quang
minh hơn hẳn hết thảy), “hết
thảy” là nói các vị Bồ Tát từ Đẳng Giác
trở xuống, không ai có thể sánh bằng Phật. “Hiển” (顯) là rõ rệt, “diệu” (曜: chiếu sáng) cũng là như
trong phần trước đã nói “mấy trăm ngàn biến hóa”, có ý nghĩa này. Trí
huệ và đức năng của Phật đều từ
tướng hảo mà thấu lộ, vượt trỗi hết
thảy, Bồ Tát đều chẳng thể sánh bằng.
Thanh Văn, Duyên Giác, chư thiên, nhân dân đương nhiên
càng chẳng sánh bằng.
Đối
với những điều được nói trong kinh,
chúng ta ắt cần phải biết, những gì Phật
có, chúng ta hoàn toàn đều có, nghe xong cũng chẳng cần
phải hâm mộ, chúng ta chẳng kém Phật mảy may nào!
Vì sao hiện thời chẳng hiển lộ? Phải biết:
Vì chúng ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, nên chẳng thể chứng đắc. Nói
cách khác, nếu chúng ta có thể buông vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống, hiện tướng
ấy bèn hiện tiền. Chúng ta thật sự muốn,
nay đang thuộc địa vị phàm phu, thật sự
mong muốn, mong mỏi trí huệ và đức tướng
đều có thể viên mãn như Phật, hãy nghiêm túc thật
sự thực hiện. Nghiêm túc thật sự thực hiện
thì chẳng thể quên Tam Học Giới, Định, Huệ.
Thứ tự nhất định là nhân Giới đắc
Định, nhân Định khai Huệ. Nếu nghĩ ta chẳng
cần giới luật, thứ này quá phiền phức, ta
thực hiện từ Định và Huệ, có được
hay không? Chẳng được! Quý vị chẳng đắc
Định, chẳng thể khai Huệ. Mười
phương ba đời hết thảy chư Phật
đều đi theo con đường này mà thành tựu. Chúng
ta chẳng noi theo đường cũ, tự mình mong khai
sáng một con đường mới, phiền phức to lớn!
Quý vị chỉ nên đi theo đường xưa,
đường xưa chỉ có một lối, tự mình
muốn khai sáng con đường mới, người hiện
thời mong sáng tạo, càng sáng tạo càng nát be nát bét.
Đúng là “chẳng nghe lời
người già, chịu thua thiệt trước mắt”.
Những người già trong nhiều đời, nhiều
thế hệ đều đi theo con đường
xưa cũ này, quý vị ngỡ là hiện thời khoa học
phát triển, phải sáng tạo cái mới, quý vị cứ
làm thử xem! Chớ nên không biết điều này, chẳng
thể không tôn trọng tổ tiên, chẳng tôn trọng
người trước. Nếu có mảy may ý nghĩ ngạo
mạn nào, ta sống trong thế kỷ hai mươi mốt,
là thời đại khoa học kỹ thuật phát triển,
lẽ nào đi theo họ? Quý vị không đi theo họ,
con đường của quý vị là tam đồ, khẳng
định là ở trong tam đồ, chúng ta chớ nên
không biết điều này! Hôm nay đã hết thời gian
rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.
Tập
140
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một
trăm sáu mươi hai, dòng thứ tư.
“Bảo sát trang nghiêm, tập tự
Tống dịch. Thượng hữu diện sắc viên
mãn tứ tự” (“Bảo sát trang nghiêm”: Câu
này được hội tập từ bản Tống
dịch, phía trước câu này có bốn chữ “sắc
mặt viên mãn”). Câu kinh văn này đọc như sau: “Diện
sắc viên mãn, bảo sát
trang nghiêm”. “Biểu Phật diện
dung sở phóng diệu quang minh trung, ánh hiện thập
phương Phật độ chi trang nghiêm bảo sát” (ý nói: Trong quang minh vi diệu
phóng ra từ khuôn mặt đức Phật, hiện bóng
cõi nước báu trang nghiêm của mười phương
cõi Phật).
Tiếp đó là: “Sát giả, Pháp Hoa Văn Cú Ký nhị”
(Sát: Theo quyển hai sách Pháp Hoa Văn Cú Ký), đây là cuốn
thứ hai, “viết: Thử vân
Điền” (giảng: “Cõi này nói là Điền”). “Thử” là Trung Hoa, chữ Sát
(剎) được dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Điền Địa (田地).
“Tức nhất Phật sở
vương thổ dã. Cố tri Sát tức Phật độ,
Phật quốc chi nghĩa” (tức là vương thổ
của một đức Phật. Vì thế, Sát có nghĩa
là cõi Phật hoặc nước Phật). Chữ Bảo
Sát (寶剎) chỉ một cõi nước
Phật. Nói theo cách hiện thời, sẽ là khu vực dạy
học của đức Phật, chúng ta càng dễ hiểu.
Do đó, Sát có nghĩa là Sát Độ (ksetra). Vào thời cổ,
tại Trung Hoa, người ta dịch chữ này là Điền
Địa. Thuở đức Thế Tôn tại thế,
giáo học, Ngài chẳng dựng đạo tràng. Nói theo hiện
thời, Ngài và Tăng đoàn sống theo phương thức
du mục, không ở một nơi cố định mà di
chuyển khắp nơi. Ở đâu có duyên bèn đến
đó. Đức Phật vô cùng tự tại, cũng chẳng
có bất cứ điều kiện gì. Người nào thành
tâm thành ý đến khải thỉnh, Ngài đều chấp
thuận, nhận lời mời. Vì các Ngài đều trụ
trong núi, rừng, ven sông, đêm nghỉ dưới cội
cây, nên chẳng cần nơi chốn riêng biệt, bất
luận chỗ nào cũng đều được. Đó
là phương thức giáo học của đức Thế
Tôn trong thuở ấy. Chúng tôi cảm thấy phương
thức này hết sức tự tại, chẳng phiền
nhiễu người khác chút nào! Người lễ thỉnh
rất tự tại, chẳng có bất cứ gánh nặng
gì. Khi đức Phật nhận lời mời cũng tự
tại. Chúng ta nói là ứng xử với các Ngài cũng rất
tự tại, chẳng làm phiền người khác. Đây
là nguyên tắc giáo học cơ bản của đức
Phật, đức Phật chẳng khiến cho người
nào khởi phiền não. Vì thế, nói đến điền
địa thì điền địa chính là chỗ Ngài giảng
kinh, thuyết pháp, chẳng cần bất cứ dụng cụ
gia đình nào! Đức Phật trải một chút cỏ
tươi rồi ngồi trên đó, các học trò cũng là
như thế, ngồi trên cỏ vây quanh bốn phía đức
Phật. Chẳng như hiện thời có giảng
đường, có bàn ghế, có lắm thiết bị
như vậy, lắm thứ bắt buộc phải có, thời
ấy chẳng có. Vì thế, chúng ta liễu giải trạng
huống khi ấy. Đó chính là ý nghĩa của chữ
Sát.
“Bảo sát” (寶剎): Bảo (寶) là hình dung sự
giáo học và thuyết pháp của đức Phật, nên gọi
là Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. Tam Bảo trọn
đủ, ba thứ này đều hết sức khó có. Phật
là thầy, là người có thể thuyết pháp, Tăng là
học trò, bao gồm thính chúng tại gia. Ý nghĩa gốc
của chữ Tăng là đoàn thể. Bốn người
trở lên, cùng học tập một chỗ thì gọi là
Tăng Chúng, bất luận tại gia hay xuất gia,
chư vị nhất định phải biết điều
này. Do vậy, Tăng đoàn là đoàn thể học tập
giáo pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, nên gọi là Tăng đoàn.
Không nhất định là tại gia hay xuất gia, nam chúng
hay nữ chúng đều gọi là Tăng đoàn. Nếu gọi
là tỳ-kheo Tăng đoàn thì khác, nhất định phải
là nói về xuất gia nam chúng. Không nói cố định
thì tại gia hay xuất gia đều gọi là Tăng
đoàn. Điều kiện nhất định của một
Tăng đoàn là trì giới, nhất định là Lục
Hòa. Nếu chẳng trì giới, chẳng có Lục Hòa, chẳng
tính là Tăng đoàn, giống như hiện thời đạo
tràng quy mô to đến mấy, đều chẳng thể
gọi là Tăng đoàn. Đối với hàm nghĩa của
những danh từ thuật ngữ trong Phật môn, chúng ta
phải nhận biết chánh xác!
Nay
đức Phật muốn giới thiệu cùng mọi
người Tây Phương Cực Lạc thế giới,
tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, nên Ngài đặc
biệt hoan hỷ. Trong phần trước, chúng ta đã
thấy Ngài vô cùng hoan hỷ. Hoan hỷ là do cơ duyên chín
muồi, vô lượng chúng sanh sẽ do lần giảng diễn
này mà đạt đến lợi ích thù thắng khôn sánh,
trong một đời này có thể vĩnh viễn thoát ly lục
đạo luân hồi, thoát ly mười pháp giới. Lại
còn đúng như Mật Tông đã nói “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân
này), điều này chẳng giả tí nào! Trong phần
trước, chúng ta đã đọc rất nhiều. Dẫu
là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng
Cư, sẽ như nguyện hai mươi đã nói: “Giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát”
(đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát). Tiêu chuẩn của
A Duy Việt Trí Bồ Tát, tiêu chuẩn thấp nhất,
chính là như Thiền Tông Trung Hoa đã nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, tiêu
chuẩn ấy! Vì thế, A Duy Việt Trí Bồ Tát vượt
trỗi mười pháp giới. Ngài ở nơi đâu? Trụ
trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm của Phật. Cõi Thật Báo
Trang Nghiêm của Phật cũng là cõi Thật Báo Trang Nghiêm
của chính mình, chư vị phải biết điều
này. Đức Phật có bốn cõi, mỗi người
chúng ta đều có bốn cõi. Bốn cõi hiển hiện
như thế nào? Đều do ý niệm của chính mình hiển
hiện, nói cách này mọi người sẽ dễ hiểu.
Kinh Phật có nói: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”, cũng có nghĩa là bốn
cõi sanh từ tâm tưởng. Trong tâm quý vị có Vô Minh phiền
não, có Trần Sa phiền não, có Kiến Tư phiền não,
tâm quý vị có ba thứ phiền não ấy, cõi Phàm Thánh
Đồng Cư trong tự tánh của quý vị liền
hiện tiền. Như quả địa cầu hiện
thời là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, khởi tâm động
niệm, ba loại phiền não ấy thảy đều trọn
đủ. Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng có
người rất hạnh phúc, rất sung sướng, có
người rất đau khổ, chịu tội, do nguyên
nhân nào? Mỗi người có nghiệp lực khác nhau.
Người tâm thiện, hành vi thiện, ở trong cõi Đồng
Cư bèn có hạnh phúc, mỹ mãn, sung sướng, cảnh
giới ấy hiện tiền. Nếu tâm hạnh người
ấy chẳng lành, tiêu chuẩn thiện là Thập Thiện
Nghiệp Đạo, [do tâm hạnh của người ấy]
trái nghịch Thập Thiện Nghiệp Đạo, sẽ
hiện thành cõi nước bất thiện, có lắm nỗi
đau khổ, như kinh đã nói “tám nỗi khổ xen nhau nung nấu”, có hiện
tượng ấy xuất hiện. Nếu nghiêm trọng
thì trong cõi Đồng Cư sẽ hiện gì? Hiện ra ba
ác đạo là ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục.
Chẳng
phải do điều gì khác mà có, mà do tự tâm hiện ra.
Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường
nói “duy thức sở biến”,
Thức là phân biệt, chấp trước. Từ phân biệt,
chấp trước của quý vị mà biến hiện cảnh
giới ấy, cho nên đạo lý “cảnh chuyển theo tâm” là ở chỗ này. Chúng
ta liễu giải đạo lý này, biết chân tướng
sự thật này, đối với lời Phật dạy,
chẳng hoài nghi mảy may. Vì thế, trong bất cứ
hoàn cảnh nào, cũng chẳng oán trời hờn người,
biết là gì? Đúng là tự làm tự chịu, chẳng
liên quan đến ai khác. Bởi lẽ, nhân quả cá nhân do
chính mình gánh vác. Nếu quý vị oán người khác, sẽ
là tội càng thêm tội, phiền phức có thể to lớn,
hứng chịu khổ báo chẳng hết. Vì thế, phải
hiểu rõ. Như thế nào thì sẽ có thể thoát ly biển
khổ, thoát khổ, thoát nghèo? Phật pháp dạy chúng ta lìa
khổ, được vui. Lìa khổ là lìa thoát nghèo khổ,
lìa thoát bệnh khổ, đạt được an lạc,
quý vị đoạn ác tu thiện. Quý vị đoạn hết
Thập Ác, nghiêm túc nỗ lực tu Thập Thiện, mạng
vận sẽ chuyển biến, quả báo cũng chuyển
biến. Phật pháp nói mạng vận, nhưng mạng vận
không phải là nhất định, nó biến đổi
theo ý niệm. Một niệm thiện, cảnh giới thiện
quả nhân thiên bèn hiện tiền. Một niệm ác, cảnh
giới ba ác đạo liền hiện tiền. Thiên biến
vạn hóa, chẳng nhất định!
Hiện thời, cả thế giới động loạn,
tai biến dị thường trên địa cầu toàn thể
thế giới đều có. Do nguyên nhân nào? Các đồng
học học Phật đều biết, do tâm hạnh chẳng
lành của chúng sanh sống trên địa cầu cảm vời,
chứ chẳng do điều gì khác! Nếu chúng ta hỏi,
khi nào xã hội sẽ có thể khôi phục hòa hài,
người Hoa gọi chuyện đó là “thiên hạ thái
bình”, khi nào sẽ có thể khôi phục? Khi nào hoàn cảnh vật
chất trên địa cầu sẽ khôi phục bình thường?
Các khoa học gia cho biết: Năm nay rất bất
thường, tai nạn nhiều, mùa Đông lại còn
đặc biệt lạnh, mùa Hạ đặc biệt
nóng, thời gian hai mùa Xuân và Thu rất ngắn. Xuân, Thu vốn
đều là ba tháng, có thể là mùa Xuân chỉ có một
tháng rưỡi, mùa Thu cũng chỉ có một tháng rưỡi.
Thời gian Đông và Hạ rất dài, vốn cũng là ba
tháng, có thể [bị kéo dài] từ bốn tháng đến
năm tháng, bất bình thường! Vì sao phát sanh tình hình
này? Do ý niệm của chúng ta sai trái. Hoàn cảnh là thức
biến, Thức là ý niệm. Ý niệm của chúng ta chẳng
lành, nên phải chịu tội nhiều hơn. Mùa Đông
đặc biệt lạnh, quý vị thấy bốn
năm tháng lạnh cóng, chịu tội nhiều! Mùa Hạ
đặc biệt nóng, thời gian Xuân và Thu rút ngắn, chẳng
phải là tự nhiên, do con người gây ra!
Kinh
Phật nói kiểu này, hết sức khó có. Hiện thời,
các nhà Lượng Tử Lực Học đã chứng minh,
họ chứng minh như thế nào? Họ chứng minh hiện
tượng vật chất là giả, hoàn cảnh [cư trụ]
của chúng ta là hiện tượng vật chất. Còn có
nhà khoa học nói: Về căn bản, thế gian này chẳng
có vật chất tồn tại, vậy thì chân tướng
của vật chất là gì? Họ nói vật chất là huyễn
tướng do ý niệm tích lũy liên tục sanh ra. Chúng ta
thật sự hiểu đạo lý này. Quý vị thấy
đức Phật đã nói từ ba ngàn năm trước,
đến gần đây, gần đây, các nhà khoa học mới
phát hiện, có cùng ý nghĩa như đức Phật nói,
nhưng ngôn ngữ hơi bất đồng, ý nghĩa hoàn
toàn giống như nhau, chứng minh những điều
kinh điển đã nói là đúng, trong kinh điển có
khoa học cao cấp. Những thông tin ấy đem lại
tin tức tốt đẹp cho chúng ta: Chúng ta có năng lực
khôi phục trật tự xã hội, khôi phục địa
cầu bình thường, chỉ cần biến đổi
ý niệm là được rồi. Đối với khởi
tâm động niệm, tổ tiên đã nói luân lý, đạo
đức, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát
Đức, đơn giản lắm. Đơn giản
thì quý vị mới có thể ghi nhớ. Đơn giản
thì lưu truyền ức vạn năm chẳng bị sai,
cương lãnh trọng yếu là mấy chữ như vậy
đó. Chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực thực hiện:
“Phụ tử hữu thân”
(cha con có tình thân), thật sự làm được niềm
thân ái ấy, tức là hiếu đạo. Giáo học của
thánh hiền không gì chẳng đặt vững căn cội
nơi chữ Hiếu. Giáo học của thánh hiền là cội
gốc to lớn. Hiếu là nói tới điều gì? Quý vị
nhìn vào chữ Hán. Chữ Hán là phù hiệu trí huệ, chữ
Hiếu (孝) biểu thị ý nghĩa gì? Nửa
phần trên là chữ Lão (老), nửa phần
dưới là chữ Tử (子), [hai phần ấy]
hợp thành [chữ Hiếu], chúng ta có thể thấu hiểu
ý nghĩa ấy. Thế hệ trước và thế hệ
sau cùng một Thể, chẳng thể tách rời. Trên đời
trước còn có đời trước nữa, sau đời
sau còn có đời sau nữa; ý nghĩa này đã được
bao hàm trong ấy. Lão Tử nói: “Thiên
địa và ta cùng gốc, vạn vật và ta cùng một
Thể”, chẳng phải là ý nghĩa này ư? Người
Hoa nói đến Hiếu, phát minh chữ ấy trước
khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc. Trung Quốc
có năm ngàn năm văn hóa, Phật giáo mới truyền
đến Trung Quốc mới hai ngàn năm. Trước
khi Phật giáo truyền đến, Trung Quốc đã có ba
ngàn năm văn hóa, nói tới căn cội này: Căn cội
hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy, chẳng
hai, chẳng khác với những điều kinh Đại
Thừa đã dạy.
Kinh
giáo Đại Thừa giảng rõ ràng hơn. Trong Bồ Tát
Giới Kinh có nói: “Hết thảy
người nam là cha ta, hết thảy người nữ
là mẹ ta”. Đấy là nói về quan hệ Ngũ
Luân. Trong Phật pháp có nói: “Hết
thảy chúng sanh vốn là Phật”. Những lời ấy
đều do đức Phật nói. Vì vậy, giáo dục
truyền thống Trung Quốc vun quén căn bản nơi “phụ tử hữu thân”, còn
giáo học Phật pháp đặt vững căn bản
nơi “hết thảy chúng sanh
vốn là Phật”. Mục đích giáo dục và giáo học
của đức Phật ở chỗ nào? Nay quý vị đang
mê mất tự tánh, quý vị vốn là Phật, nay đã mê,
biến thành lục đạo phàm phu, mục tiêu chung cực
của đức Phật trong việc dạy bảo chúng
ta là muốn khiến cho chúng ta chuyển phàm thành thánh, trở
về vị Phật vốn sẵn có thì sự giáo dục
của đức Phật bèn viên mãn. Thành Phật có khó hay
không? Sau khi quý vị đã hiểu rõ nguyên lý được
giảng trong kinh, sẽ biết là chẳng khó chút nào, buông
xuống mà thôi! Buông Kiến Tư phiền não xuống, bèn
thành A La Hán, buông Trần Sa phiền não xuống, sẽ là Bồ
Tát, buông vô minh phiền não xuống, quý vị bèn thành Phật,
trở về tự tánh. Do vậy, tu học Phật pháp,
nói tới công phu tu hành thật sự thì là gì? Từ đầu
tới cuối là buông xuống mà thôi! Vì sao bảo quý vị
buông xuống? “Phàm những gì
có tướng đều là hư vọng”, chẳng có gì là thật. Nếu
là thật, đức Phật sẽ chẳng bảo chúng
ta buông xuống. Bảo quý vị buông xuống vì tất cả
đều là hư vọng. Quý vị buông những thứ
hư vọng xuống, chân thật liền hiện tiền,
chân thật là gì? Phật tánh. “Tự
tánh thanh tịnh viên minh thể” như Hoàn Nguyên Quán
đã nói bèn hiện tiền, buông vọng xuống, Chân liền
hiện tiền, đó gọi là “chứng
Chân”. Trong kinh, đức Phật đã giảng vấn
đề này, giảng về nguyên khởi của vũ trụ,
giảng chánh báo do đâu mà có. Chánh báo là gì? Chính mình, chính bản
thân ta, ta do đâu mà có.
Kinh
Đại Thừa nói rất rõ ràng, rốt cuộc thân thể
của ta là như thế nào? Nhục thân bao gồm
xương, máu, lông trên da, lông tơ, tóc, đều thuộc
về chánh báo. Đó là hiện tượng vật chất.
Vật chất và tinh thần đồng thời phát sanh,
vì sao? Trong tự tánh vốn trọn đủ. Huệ
Năng đại sư kiến tánh đã bảo: “Nào ngờ tự tánh bổn tự
trọn đủ”, trọn đủ những gì? Trọn
đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức
năng, vô lượng thần thông, vô lượng tướng
hảo, hết thảy đều là vô lượng, chẳng
khiếm khuyết mảy may! Vì sao nói là vô lượng? Thật
sự là vô lượng. Các khoa học gia hiện thời
có tính toán, đáng tiếc là tôi chẳng ghi chép những con
số ấy, sau này, tôi tìm người giỏi toán viết
những con số ấy ra. Trên thân người chúng ta, họ
biết trên thân người có bao nhiêu tế bào. Những tế
bào ấy phân tích ra thành bao nhiêu phân tử, lại phân tích ra
thành bao nhiêu nguyên tử, [sẽ biết] trên thân có bao nhiêu
nguyên tử, bao nhiêu lạp tử. Nay đã phân tích đến
lượng tử, trên thân này có bao nhiêu lượng tử.
Những lượng tử nhỏ như vậy vẫn là
Ngũ Uẩn như đức Phật đã nói. Đức
Phật giảng rất hay, lớn
đến mức như vũ trụ, nhỏ đến mức
như lượng tử, đều chẳng thể
vượt ngoài Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn là gì? Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần. Thọ (受)
là gì? Nó có năng lực cảm thụ, tiếp nhận. Nó
có thể thấy, có thể nghe, có thể tiếp xúc bên
ngoài. Nó
có Tưởng, có Hành, Hành (行) là gì? Hành là
như trong phần trước của kinh đã nói “mấy trăm ngàn thứ biến
hóa”. Đó là Hành, mấy trăm ngàn thứ biến hóa là
hình dung nó có thể biến hóa. Nó có Thức, nay chúng ta gọi
Thức là “tư tấn” (資訊), tức tin tức. Có bao nhiêu tin tức? Trong một tiểu
quang tử có tin tức trọn khắp pháp giới hư
không giới, tất cả tin tức đều ở trong
đó, chẳng sót một điều nào. Vì vậy, trong Phật
pháp có khoa học bậc cao.
Có
người hỏi tôi một câu hỏi khó: Con giun, tức
là một loại trùng bò nho nhỏ, quý vị dùng dao chặt
nó làm đôi, nó liền biến thành hai con. Nó chẳng chết,
cả hai con đều sống. Người ấy hỏi
tôi chuyện gì? Người ấy nói thần thức là một,
nay biến thành hai con giun, có phải là có hai thần thức?
Đúng vậy! Có hai thần thức thì trong tương
lai, chúng thành Phật chẳng phải là thành hai vị Phật
ư? Giải đáp vấn đề này như thế nào?
Chúng tôi giải đáp theo tướng. Nói theo sự, nói
theo tướng, thân của nó tồn tại, tồn tại
ở chỗ nào? Mỗi tiểu quang tử đều là một
thể hoàn chỉnh. Nói cách khác, thần thức là vô lượng
vô biên, chẳng sai! Một người có thể trở
thành vô lượng, vô biên Phật, nói cho quý vị biết
là thật, cũng chẳng giả! Nếu một người
tạo tác tội nghiệp trong địa ngục, có phải
là vô lượng vô biên thân hứng chịu vô lượng
vô biên tội hay không? Đúng vậy! Trong kinh, đức Phật
đã nói như thế. Vì sao chúng ta nói rất nhiều
người đầu thai trong lục đạo, [đầu
thai] là một thần thức, chẳng phải là hai ư?
Nói cho thông suốt, hết thảy các pháp sanh từ tâm
tưởng. Ý niệm của quý vị chấp trước
thân này là chính mình, thân đã chết mà vẫn chẳng nỡ
rời khỏi, giữ rịt lấy thân thể này, nên gọi
là “thủ thi quỷ” (quỷ
giữ thây), trọn chẳng biết thân lẫn tâm đều
là giả. Chẳng phải là Quán Thế Âm Bồ Tát đã
nói rất rõ ràng trong Tâm Kinh, mọi người hằng
ngày đều niệm kinh ấy, vì sao hoàn toàn chẳng sử
dụng được? Bồ Tát nói rất rõ ràng: “Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa
thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không” (khi hành
sâu xa Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi thấy năm uẩn
đều không). Sau đấy, càng nói tỉ mỉ hơn:
“Sắc bất
dị Không, Không bất dị Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức diệc phục như thị” (Sắc chẳng khác Không, Không chẳng
khác Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại
như vậy). Nếu quý vị tham cứu thấu triệt
kinh văn ấy, vấn đề của quý vị sẽ
được giải đáp. Chẳng còn nữa! Quý vị
chẳng có vấn đề ấy! Bởi lẽ, nếu
quý vị chấp trước, nó sẽ biến thành một.
Nếu chẳng chấp trước, nó liền biến thành
rất nhiều. Vì vậy, Phật, Bồ Tát có thể phân
thành vô lượng vô biên thân. Địa ngục cũng là
như thế, xác thực là phân thành vô lượng vô biên
thân trong địa ngục để lãnh chịu vô biên hình
phạt.
Đến
nay, kinh văn đã được học thuyết khoa học
chứng minh, dễ hiểu hơn trước kia. Vì thế,
đối với kinh văn sâu xa, uyên áo như thế này
mà cổ nhân có thể thấu hiểu, chúng ta bội phục
họ năm vóc sát đất. Hiện thời, nhờ các
báo cáo của các nhà khoa học, chúng ta được đắc
lực rất nhiều. Đem chúng so sánh với Phật học,
chúng ta liễu giải Phật pháp càng rõ ràng hơn. Ở
đây là nói đến nguồn cội của Bảo Sát
(cõi báu). Mặt đức Phật phóng quang, trong quang là gì?
Trong quang minh có vô lượng vô biên cõi Phật, quý vị thấy
quang minh hiện bóng cõi báu trang nghiêm của mười
phương cõi Phật. Nói cách khác, trong Phật quang hiện
ra đạo tràng thuyết pháp giáo học của mười
phương chư Phật. Bảo sát là đạo tràng,
các Ngài hoạt động tại đó, giảng kinh, dạy
học nơi đó. Người nào có thể thấy hiện
tượng này? Pháp Thân Bồ Tát. Vì sao? Các Ngài chẳng có
chướng ngại. Phật, Bồ Tát trong mười
pháp giới vẫn chưa được, chẳng thấy,
trừ phi Phật và các Ngài có duyên liền đặc biệt
gia trì thì sẽ có thể thấy. Chẳng được
Phật lực gia trì, sẽ chẳng thấy, nhưng Pháp
Thân Bồ Tát không cần gia trì, bất cứ lúc nào cũng
đều có thể thấy.
Tiếp đó là: “Tống dịch tục vân:
Như thị công đức, đắc vị tằng hữu.
Cái vị chiêu thị thập phương, Phật
tương khai diễn đệ nhất hy hữu chi pháp,
cố hiện thị tiền sở vị kiến chi thụy.
Cố bổn kinh trung tục viết: Tùng tích dĩ lai, vị
sở tằng kiến, hỷ đắc chiêm ngưỡng,
sanh hy hữu tâm” (bản
Tống dịch ghi thêm: “Công đức như
vậy là chưa từng có”. Ấy là vì tỏ rõ với
mười phương: Đức Phật sẽ khai
diễn pháp hy hữu bậc nhất. Vì vậy, đức
Phật hiện tướng lành chưa từng bao giờ
thấy như thế. Do đó, kinh này chép tiếp rằng: “Từ
xưa đến nay, chưa từng được
thấy, mừng rằng mình được chiêm
ngưỡng, sanh tâm hy hữu”). Mấy câu này cho
biết, trong bản Tống dịch có hai câu như thế,
tiếp theo đó, có tất cả bốn câu: “Diện sắc viên mãn, bảo
sát trang nghiêm, như thị công đức, đắc vị
tằng hữu” (Sắc mặt viên mãn, cõi báu trang nghiêm,
công đức như thế là chưa từng có). Đó là
kinh văn trong bản Tống dịch. “Chiêu thị thập phương”: Chiêu là chiêu minh
(昭明: sáng tỏ) Thị (示) là thị hiện (示現), thị hiện rõ rệt cho
mười phương chúng sanh được thấy
nghe, bao hàm ý nghĩa: Nay Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ khai diễn
pháp hy hữu bậc nhất. Chúng ta phải ghi nhớ câu
này, phương pháp hy hữu bậc nhất là kinh Vô Lượng
Thọ. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ có thể gọi
là kinh bậc nhất [trong các kinh do] chư Phật đã
nói. Lời này cũng chẳng phải do chúng tôi tùy tiện
thốt ra. Thiện Đạo đại sư đã nói: “Chư Phật sở dĩ
hưng xuất thế” (sở dĩ chư Phật xuất
hiện trong cõi đời), các Ngài đến hiện thân,
thuyết pháp trong thế gian này,
“duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải” (chỉ
để nói biển bổn nguyện của Phật Di
Đà), có nghĩa là Phật đến thế gian này để
giáo hóa chúng sanh, độ thoát chúng sanh, giúp chúng sanh phá mê
khai ngộ, giúp chúng sanh lìa khổ, được vui, Ngài
đã dùng phương pháp gì? Thứ nhất là dùng
phương pháp này. Vô lượng pháp môn khác nhằm phụ
trợ phương pháp này. Giống như một cội
cây to, phương pháp này là cội rễ, ngàn kinh vạn luận
là cành cây, thân cây, ngọn cây, lá cây, là những thứ
đó, còn kinh này là căn bản.
Chúng ta cũng nghe
các tổ sư đại đức bảo Hoa Nghiêm là
căn bản của hết thảy các pháp. Chẳng sai! Chẳng
sai tí nào cả! Kinh Hoa Nghiêm xác thực là căn bản, vì
sao? Thích Ca Mâu Ni Phật minh tâm kiến tánh, sau khi kiến
tánh, Ngài đã hoàn toàn nói ra cảnh giới đã thấy.
Đó là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
Kinh, há có sai! Đương nhiên [Hoa Nghiêm] là căn bản
pháp luân. Hết thảy các pháp được nói trong bốn
mươi chín năm đều là cành lá của Hoa Nghiêm, từ
xưa các vị tổ sư đại đức đã
công nhận điều này. Vậy thì vì sao kinh Vô Lượng
Thọ lại biến thành bậc nhất? Chúng ta đọc
kỹ kinh Hoa Nghiêm sẽ hiểu rõ. Kinh Hoa Nghiêm cho đến
cuối cùng viên mãn như thế nào? Tự tu viên mãn, độ
chúng viên mãn, viên mãn như thế nào? Cuối cùng, mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát dẫn về Cực Lạc. Dẫn về Cực Lạc
là dẫn về kinh Vô Lượng Thọ, Hoa Nghiêm đạt
đến rốt ráo viên mãn là trở về Vô Lượng
Thọ. Do vậy, kinh Vô Lượng Thọ liền biến
thành căn bản của căn bản, chúng ta chớ nên
không biết điều này, chớ nên không nhận thức
rõ ràng! Nếu không, thì sao? Đã gặp pháp môn này vẫn nghĩ pháp môn khác khá lắm, chẳng
trọn đủ tín tâm đối với pháp môn này. Tín tâm
chẳng đủ, Phật pháp chẳng bị thiệt
thòi, mà chính là quý vị bị thiệt thòi: Pháp hy hữu bậc
nhất ở ngay trước mặt mà quý vị bỏ lỡ,
đời sau vẫn bị luân hồi, vẫn phải sanh
tử, quý vị sai lầm mất rồi! Vì thế,
câu này có ý nghĩa sâu xa, quý vị phải thừa nhận bộ
kinh này là pháp hy hữu bậc nhất.
“Cố
hiện thị tiền sở vị kiến chi thụy”
(nên hiện tướng lành chưa từng thấy như
trên đây): Đức Phật hiện tướng lành, “phóng quang hiện thụy” (phóng
quang, hiện tướng lành), trong hết thảy các kinh,
quý vị chẳng thấy Ngài toàn thân phóng quang. Vì thế,
kinh này nói tiếp: “Tùng tích
dĩ lai” (từ trước tới nay), đây là nói về
tôn giả A Nan. Ngài A Nan là thị giả của đức
Phật. Đức Phật giảng kinh, Ngài chưa hề
vắng mặt buổi nào, trước nay, Ngài chưa thấy
đức Phật hoan hỷ dường ấy, đức
Phật hiện tướng thù thắng ngần ấy.
Chúng ta phải ghi nhớ tướng được biến
hiện này. Đức Phật chẳng khởi tâm động
niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, vì sao
mỗi ngày hiện tướng khác nhau? Đức Phật
vĩnh viễn trụ trong tự tánh. Sách Hoàn Nguyên Quán nói “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”,
đó là trụ xứ của Phật, chẳng lìa tự
tánh. Trong tự tánh, chẳng có phân biệt, chấp trước,
chẳng có khởi tâm động niệm. Đức Phật
thị hiện trong mười pháp giới, thị hiện
trong tam đồ, cũng chẳng có khởi tâm động
niệm. Hết thảy chúng sanh thấy Phật thị hiện,
toàn là do nghiệp cảm của chúng sanh, nghiệp của
chúng sanh niệm niệm khác nhau. Phàm phu chúng ta không biết,
chúng ta biết thô niệm, nhưng chẳng biết tế
niệm. Di Lặc Bồ Tát bảo: “Một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm”. Chúng ta chẳng biết các niệm ấy,
chúng là thật, chẳng giả! Nếu là người khảy
ngón tay mau lẹ, trong một giây có thể khảy năm lần
thì trong một giây có bao nhiêu niệm? Tính theo cách nói của
Di Lặc Bồ Tát, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu.
Một giây là một ngàn sáu trăm triệu, làm sao quý vị
có thể biết được nổi? Niệm niệm
đều khác nhau. Vì thế, kinh nói “mấy trăm ngàn thứ biến hóa”, lời ấy
là thật, chẳng giả tí nào. Ngài nói toàn là chân tướng
sự thật, toàn là cảnh giới Như Lai đích thân
chứng đắc, chẳng phải là tùy thuận ý niệm
của phàm phu chúng ta, mà là cảnh giới do Ngài đích thân
chứng. Vì thế, ngài A Nan trông thấy, A Nan đại diện
cho đại chúng dự hội, “hỷ đắc chiêm ngưỡng, sanh hy hữu
tâm” (mừng được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy
hữu), khẳng định trong các đại chúng dự
hội [cũng có một tâm trạng ấy].
“Thử
biểu A Nan tuy cửu thị Phật trắc, đản
như tư thụy tượng, tiền sở vị kiến.
Kim nhật hạnh năng chiêm thị khâm ngưỡng, kiến
thử quang minh, tâm trung hoan hỷ, nãi khởi hy hữu nan
tao chi tưởng” (Điều này cho thấy ngài A Nan tuy hầu bên cạnh
Phật đã lâu, nhưng các tướng lành như thế
ấy từ trước đến nay Ngài chưa từng
được thấy. Ngày nay may mắn ngắm nhìn, khâm
phục. Thấy quang minh này, trong tâm hoan hỷ, liền
khởi lên ý tưởng hy hữu, khó gặp). Câu này ý nói
lên cảm nhận của tôn giả A Nan vào lúc ấy, quá hy hữu,
cơ hội thành Phật viên mãn trong một đời
đã đến rồi! “Ư
thị, A Nan tùng tòa nhi khởi, ca-sa bị thể, đản
lộ hữu kiên, thử danh thiên đản hữu kiên,
nãi tỳ-kheo trí kính chi cực” (Do vậy, A Nan liền từ chỗ
ngồi đứng lên, kéo áo ca-sa đắp thân để
lộ vai hữu, chuyện này được gọi là
“trật áo vai phải”, đó chính là cách tỏ lòng cung kính
cùng cực của tỳ-kheo). Đấy là sự lễ kính của
hàng đệ tử xuất gia đối với đức
Phật. “Thiên đản hữu
kiên” (偏袒右肩: trật áo, lộ
vai phải) là cách kính lễ nhất. Tấm y mà giới Phật
giáo Trung Hoa đắp hiện thời được gọi
là Ca Sa (Kāṣāya), quý vị thấy
để lộ vai phải, vì sao phải lộ vai phải?
Niệm niệm chẳng quên phụng sự thầy, đối
trước thầy hành lễ. Thầy có chuyện gì muốn
sai bảo quý vị làm, sẽ hết sức thuận tiện,
tay phải ở ngoài [ca-sa], sẽ phục vụ rất nhanh
nhẹn, có thể tiếp nhận, [hở vai áo phải nhằm
biểu thị] niệm niệm chẳng quên phụng sự
sư trưởng. Ở nhà thì hiếu thuận với cha
mẹ, cũng là niệm niệm chẳng quên chuyện do
cha mẹ đã giao phó, sẽ thực hiện rất nhanh,
chớ nên lười nhác, biểu thị ý nghĩa này. Bình
thường thì sao? Bình thường thì y ca-sa phủ kín hai
vai. Hở vai bên phải là hành lễ. Quý vị thấy
trong Tiểu Thừa, Nam Truyền Tiểu Thừa, họ
quấn ca sa trên người, bước vào đại
điện bèn lộ tay phải. Phật giáo truyền
đến Trung Quốc, Trung Quốc thuộc khu vực ôn
đới. Thuở Phật cư trụ tại Ấn
Độ, Ấn Độ là xứ nhiệt đới, nên
họ ăn mặc rất đơn giản, ba y là đủ
rồi. Xứ nhiệt đới thì đến đêm, ba
y coi như chăn đắp, ban ngày đều phủ lên
thân. Khi làm lụng, chỉ dùng một tấm y, thường
nói y năm điều là quần áo lao động. Y bảy
điều là lễ phục thông thường, là lễ phục
mặc thường xuyên. Từ chín điều trở lên
cho đến hai mươi lăm điều là đại
lễ phục. Tấm y hiện thời của chúng ta là
hai mươi lăm điều, là đại lễ phục,
khi hành lễ mới dùng. Đức Phật giảng kinh,
chúng ta đến nghe kinh là đại lễ. Bởi lẽ,
trong giảng đường, hoạt động Phật
giáo là giảng học, chẳng có hoạt động nào
khác. Đức Thế Tôn thăng tòa thuyết pháp, học
trò cung kính đến nghe giảng, tất cả đều
trật áo hở vai phải, đều mặc đại
lễ phục.
“Trường
quỵ hiệp chưởng: Trường quỵ giả,
song tất trước địa” (Quỳ thẳng chắp
tay: Quỳ thẳng là hai gối đặt sát đất),
có thể quỳ lâu dài. Khi hành lễ bái Phật, có lúc sử
dụng hồ quỵ (胡跪). Hồ quỵ
là chỉ có một chân đặt xuống đất,
cũng là hành lễ, biểu thị đức Phật có
sai phái gì, quý vị bèn đứng lên rất mau, đều là tâm
thái ắt phải có để phụng sự bậc
trưởng thượng, chẳng dám lười nhác, tán
loạn, sử dụng theo ý nghĩa này. Trong trường
quỵ cũng có hồ quỵ, một chân đặt sát
đất, ở đây nói là hai gối đặt sát đất,
cũng là trường quỵ. Trong trường quỵ có
hai loại, chớ nên không biết. “Hiệp chưởng giả, hợp tả hữu
lưỡng chưởng chi thập chỉ, cố hựu
danh Hiệp Thập. Ấn Độ dĩ hiệp chưởng
biểu kính lễ, biểu nhất tâm chuyên chú, cung kính chi
nghi” (“Chắp tay” là khép mười ngón tay từ hai bàn
tay trái và phải lại, nên lại gọi là “hiệp thập”
(ép sát mười ngón tay lại). Ấn Độ dùng chắp
tay để biểu thị sự kính lễ, biểu thị
nhất tâm chuyên chú, là nghi lễ tỏ lộ sự cung
kính). Mười đầu ngón tay biểu thị điều
gì? Biểu thị tán loạn. Chúng ta có rất nhiều ý niệm,
nghĩ Đông tưởng Tây. Khi cung kính bèn chắp hai tay
lại, biểu thị chúng ta thu hồi sự tán loạn,
nhất tâm chuyên chú, có ý nghĩa này. Vì thế, khi chắp
tay, nhất định phải chắp sao cho các ngón thật
khít nhau nhằm biểu thị nhất tâm. Có người
chắp tay [mà các ngón tõe ra] như thế này, tức là không
chuyên tâm, mà cũng chẳng cung kính, làm cho có mà thôi, chẳng
có thành ý! Vì thế, khi thành ý, nhất định phải chắp
lại thật khít, biểu thị thành ý. Điều này là
lễ tiết nhỏ nhặt, nhưng lễ tiết vụn
vặt chớ nên bỏ. Lễ tiết nhỏ nhặt
cũng chẳng bỏ mất thì đại đức mới
có thể thành tựu. Vì vậy, trong hiện thời, thành
tựu đại đức rất khó khăn, vấn
đề là vì đối với lễ tiết nho nhỏ
đã tùy tiện, cứ ngỡ những chi tiết nhỏ
nhặt cứ qua loa cũng được. Do đó, chẳng
thể thành tựu đại đức.
Chữ “Bạch”
(白) là từ ngữ tôn kính. Đối
với bề trên, đối với trưởng bối,
như chúng ta thường thấy trong kinh chép là “bạch Phật ngôn” (bạch
cùng đức Phật rằng), hiện thời nói là “báo
cáo”. Bạch có nghĩa là báo cáo. “Biểu
bạch dã. A Nan trường quỵ, hiệp chưởng,
hướng Phật trần thuyết, kính phát sở vấn
dã” (“Bạch” là thưa bày. A Nan quỳ dài, chắp tay,
hướng về đức Phật tỏ bày, cung kính
thốt lời thưa hỏi). Những chữ
được nêu trên đây toàn là lễ tiết. Những
lễ tiết ấy thường được vận
dụng trong cuộc sống hằng ngày, là lễ tiết
đối với tất cả các vị tôn trưởng.
Đức Phật là thầy, cũng là trưởng bối.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có trọn đủ
những lễ tiết, lễ phép hay không? Lễ tiết
thật sự trọng yếu dường ấy ư? Trọng
yếu! Vì sao? Tâm chân thành thanh tịnh của quý vị
người khác nhìn chẳng ra, nhưng nó sẽ được
bộc lộ qua các động tác. Chúng ta làm theo cách như
vậy, đương nhiên là chính mình chân thành, biểu thị
sự chân thành của chính mình, ngoài ra còn là giáo hóa chúng sanh.
Đặc biệt là trong thời đại này, mọi
người quên khuấy lễ kính, chúng ta bất luận ở
nơi đâu, quý vị làm chuyện này sẽ là công đức,
là tu công đức. Bất luận ở nơi chốn
nào, quý vị thấy người khác, người khác là
trưởng bối của chúng ta, hoặc tuổi tác cao
hơn chúng ta, lớn hơn mười tuổi trở lên
là trưởng huynh, lớn hơn hai mươi tuổi là
bậc ngang vai vế với cha ta, chính mình là vãn bối, hoặc
là [trông thấy người] cấp bậc cao hơn chúng
ta, hễ trông thấy phải hành lễ, lễ thì phải
cung kính. Lễ tiết trong Phật môn là khi xá chào phải
khom mình chín mươi độ để hành lễ,
điều này có tất yếu hay không? Có chứ! Quý vị
thấy chúng tôi hễ nhìn thấy người khác bèn khom
mình chín mươi độ để hành lễ, trong tâm
quý vị bèn sanh lòng hoan hỷ. Người hiện thời
chẳng có lễ tiết, thấy cha mẹ, người
trên mà gật đầu thì kể ra cũng còn khá, [vì] có
lúc, đầu họ cũng không thèm gật nữa kia! Nếu
chẳng có lễ, thưa cùng chư vị, chẳng có tâm
cung kính, vì sao? Điều gìn giữ trong lòng nhất định
thấu lộ ra ngoài. Trong tâm quý vị thật sự thành
kính, bên ngoài tự nhiên là lễ tiết như vậy, chẳng
cần ai dạy. Quý vị rất cung kính một ai đó,
trông thấy người ấy, đúng là sẽ [cư xử]
khác hẳn.
Vì thế, người
hiện thời bỏ sót lễ, cũng chẳng có ai dạy,
nên tâm thành kính chẳng có, học thứ gì cũng đều
học chẳng thành. Vì sao? Ấn Quang đại sư nói
rất hay: “Một phần
thành kính được một phần lợi ích, mười
phần thành kính được mười phần lợi
ích”. Quý vị chẳng có thành kính, làm sao đạt
được? Dẫu là vị thầy giỏi đến
mấy, hoặc bậc thánh hiền đến dạy quý vị,
Phật, Bồ Tát đến dạy quý vị, quý vị
đều chẳng đạt được lợi ích,
vì sao? Thiếu tâm thành kính. Điều này cho thấy, chẳng
phải là Phật, Bồ Tát không đến, mà là do Phật,
Bồ Tát thấy quý vị chẳng có thành kính, có đến
cũng vô dụng! Phật, Bồ Tát thật sự đến,
sẽ giúp quý vị tạo nghiệp, Phật, Bồ Tát chẳng
nỡ lòng nào! Vì sao? Không chân thành bất kính là tội, là lỗi,
lẽ nào Phật, Bồ Tát giúp quý vị tạo tội lỗi?
Vì vậy, các Ngài lánh xa, đó là lòng từ bi chân chánh, chẳng
khiến cho chúng ta vì bất kính thánh hiền mà phạm tội
lỗi, nên các Ngài tránh né. Quý vị thấy Phật, Bồ
Tát vì chúng ta thị hiện là từ bi, mà tránh né chẳng
đến vẫn là từ bi! Hiểu đạo lý này,
chúng ta muốn cầu học, thật sự mong cho học
nghiệp và đạo nghiệp của chính mình thành tựu
thì thành tựu từ nơi đâu? Thành tựu từ tâm
cung kính, điều này rất quan trọng. Bản thân tôi cầu
học thuở trước là một thí dụ tốt.
Chúng tôi chẳng có quan hệ gì với thầy, căn bản
là chẳng quen biết. Nghe tiếng thầy được
rất nhiều người cung kính, tán thán, chúng tôi biết
đó là một vị thầy tốt nên được nhiều
người tán dương như vậy, học đòi Mao
Toại[4] tự
tiến cử, viết thư gởi cho thầy. Chúng tôi là
một gã nghèo túng, hèn mọn, mong học mà chẳng có duyên
phận, viết một bức thư thỉnh cầu thầy
chấp thuận cho chúng tôi được học bàng thính.
Khi thầy dạy, cho phép chúng tôi được dự
thính. Tôi cung kính viết lá thư ấy. Thầy nhận
được thư bèn hẹn tôi gặp mặt, trực
tiếp nói chuyện. Chúng tôi giữ lễ đối với
thầy, xác thực là có biểu hiện, tuy chẳng phải
là mười phần cung kính, nhưng phải là được
bảy tám phần, chẳng giống các bạn học thông
thường.
Thầy
không chỉ là chịu dạy, mà mỗi tuần còn dành cho
tôi hai giờ, dạy tôi ở nhà thầy hai tiếng đồng
hồ, chẳng thể tưởng tượng được!
Một xu học phí cũng chẳng có! Nếu gặp
người khác thì trong giờ lên lớp, anh đến
nghe ké chẳng phải là đã được rồi hay
sao? Đặc biệt dành ra thời gian, mỗi tuần dạy
tôi hai giờ, giảng cho tôi một bộ khái luận triết
học, chẳng theo sách giáo khoa. Nhân duyên học Phật của
tôi do vậy mà có. Chủ đề trong khoa mục cuối
cùng là triết học trong kinh Phật, thầy bảo tôi: “Thích Ca Mâu Ni Phật là triết
gia vĩ đại nhất trên thế giới, kinh Phật
là đỉnh cao nhất trong triết học trên toàn thế
giới, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất
trong đời người”, quét sạch mọi thứ
hiểu lầm trong thời trẻ của tôi đối với
Phật giáo. Vì chúng tôi vốn nghĩ Phật giáo là tôn giáo,
là mê tín, chẳng có ý niệm muốn tiếp xúc. Khi thầy
giới thiệu như thế, mới biết trong Phật
pháp có đại học vấn, bèn sửa đổi quan
niệm trong quá khứ, bắt đầu đến chùa miếu.
Đến chùa miếu để làm gì? Tìm xem kinh sách. Thầy
chỉ định những kinh điển nào mong chúng tôi sẽ
đọc. Thuở ấy, kinh điển chẳng thể
mua từ bên ngoài, chỉ trong chùa miếu mới có Đại
Tạng Kinh, phải sao chép từ trong Đại Tạng
Kinh ra. Thuở ấy, tôi còn sao chép mười mấy bộ.
Đó là gì? Đó là chính mình thuở bé học được
đôi chút tôn sư trọng đạo do cha mẹ dạy,
sau này đạt được sự tiện nghi ấy,
chẳng dễ dàng! Vì thế, thảy đều do từ
lễ nghi cung kính mà được thầy hoan hỷ, chịu
dạy tôi, chẳng cần đóng học phí, đặc biệt
bỏ ra thời gian dạy học, duyên phận ấy hy hữu,
khó gặp! Vì thế, cầu thiện tri thức thì phải
đầy đủ điều kiện để cầu
thiện tri thức, chớ nên không biết!
Tiếp
đó là lời hỏi của A Nan, A Nan mở miệng
thưa: “Thế Tôn kim nhật
nhập đại tịch định” (nay đức
Thế Tôn nhập đại tịch định). Ở
đây, cụ Niệm Tổ có giải thích: “Ly nhất thiết tán động,
cứu cánh tịch tĩnh, vị chi đại tịch” (Lìa hết thảy tán
động, tịch tĩnh rốt ráo thì gọi là “đại
tịch”). Tiếp đó là nói: “Đại
tịch định giả, Như Lai sở nhập chi Thiền
Định” (Ðại
tịch định là Thiền Định được
đức Như Lai nhập). Trên thực tế, đại tịch
định là gì? Là tự tánh vốn định. Khi kiến
tánh, Huệ Năng đại sư đã nói, Ngài báo cáo [tâm
đắc với Ngũ Tổ], câu thứ tư là: “Nào ngờ tự tánh vốn chẳng
dao động”. Đó là đại tịch định,
trở về tự tánh. Vì thế, lìa hết thảy tán
động, Trần Sa phiền não là Tán, Kiến Tư phiền
não là Động. Tịch tĩnh rốt ráo, cảnh giới
ấy cao lắm. Chẳng có hai chữ “rốt ráo” thì tịch
tĩnh là Bồ Tát, thêm vào hai chữ “rốt ráo” sẽ là
Như Lai, cao hơn Bồ Tát, gọi là “đại tịch”.
Vì thế, đại tịch định là môn Thiền
Định do đức Như Lai đã nhập, là tự
tánh vốn định. “Niết
Bàn kinh tạp viết” (kinh Niết Bàn quyển thứ
ba mươi chép), đức Phật nói, “Ngã ư thử gian Sa La song thụ, nhập đại
tịch định. Đại tịch định giả,
danh Đại Niết Bàn” (Ta ở rừng Sa La song thụ trong cõi này,
nhập đại tịch định. Ðại tịch
định có tên là Ðại Niết Bàn). Kinh Niết Bàn
do đức Thế Tôn nói khi Ngài nhập diệt. Thích Ca
Mâu Ni Phật rời khỏi thế gian này, người thế
gian nói Thích Ca Mâu Ni Phật đã chết, Phật có sanh tử
hay không? Thưa cùng chư vị, chẳng có! Phật chẳng
có sanh tử; chúng ta có sanh tử hay không? Nói cho quý vị biết,
chúng ta cũng không có sanh tử. Chúng ta sanh tử là thân có
sanh tử, nhưng linh hồn chẳng có sanh tử, thật
vậy, chẳng giả! Linh hồn hết sức tích cực
trong khoảng thời gian và không gian này.
Chúng
ta xem quyển sách này, Khải Tát Quân Đoàn Đông Chinh
Trung Quốc Chi Mê (bí ẩn về đoàn quân đông chinh
Trung Quốc của Caesar). Chuyện này được phát
hiện gần đây nhất, là chuyện từ hai ngàn một
trăm năm trước, là thật, chẳng giả.
Đại đế Khải Tát (Caesar) của đế quốc
La Mã phái một đoàn quân hơn mười vạn người
xâm lược Trung Quốc, quả thật đường
sá xa xôi, đội quân đến mười mấy vạn
người, theo báo cáo cho biết, kỵ binh là hai phần
ba, bộ binh một phần ba. Một đội ngũ khổng
lồ chẳng thể di chuyển quá nhanh. Nếu kỵ
binh tiến trước, đằng sau bị lạc khỏi
đội ngũ thì không được rồi! Ban đêm
đóng quân nghỉ trong lều, đều ở cùng một
chỗ. Một đoàn quân khổng lồ như vậy,
đi từ La Mã đến Trung Quốc mất hơn một
năm. Khi đi đến vùng Tân Cương hiện thời,
đoàn quân ấy gần như đã có hai vạn người
chết vì bệnh truyền nhiễm. Chúng ta biết họ
rời khỏi La Mã, chẳng bổ sung thêm quân, nên số
lính một mực giảm bớt, chẳng được
bổ sung. Ở Trung Quốc, họ cùng quân Trung Quốc
giao chiến tại Tân Cương. Quân đội La Mã
được huấn luyện kỹ càng, thuở ấy
họ vô cùng nổi tiếng nhất Âu Châu là quân đội rất hung hãn. Vì thế, họ
cũng rất kiêu ngạo, coi thường người
Hoa, người Hoa nhỏ con hơn họ, vóc dáng lại
lùn tịt. Nhưng người Hoa có mưu mẹo, dùng trí
để thắng. Đánh một trận đầu với
người Hoa, bị chết hơn chín ngàn người.
Sau khi giao chiến với Trung Quốc, chẳng dám khinh
địch, niềm tin sẽ chiếm lãnh Trung Quốc
cũng mất đi, chỉ sợ chẳng có năng lực
chiếm đóng Trung Quốc, nhưng mệnh lệnh của
đại đế Caesar chẳng thể trái nghịch, cứ
tiếp tục tiến về hướng Đông. Đi đến
hành lang Hà Tây, tức là đến vùng Cam Túc, quân đội
đã mất đi hai phần ba, tử vong vì giao tranh trên
đường đi, hoặc tử vong khi hành quân, hoặc
tử vong vì bị tai nạn bất ngờ. Đặt biệt
là chẳng chịu nổi khí hậu sa mạc, nên tới
được Hành Lang Hà Tây, [cả đoàn quân chỉ còn
sót lại] gần như chưa tới một vạn
người. Cuối cùng, toàn bộ cánh quân ấy bị diệt,
rốt cuộc, còn lại hơn một trăm người
tự sát tập thể tại Cam Túc, Trung Quốc.
Câu
chuyện đã được kể rất rõ ràng, và
cũng được kể hết sức tường tận,
là thật, chẳng giả. Quý vị thấy quỷ hồn
của những người đã chết từ hai ngàn một
trăm năm trước, được gọi là “cô hồn
dã quỷ”, họ ôm nỗi chấp trước, vẫn [tự
coi mình] là một quân đoàn trú đóng tại nơi ấy.
Thống soái khá lắm, là con trai thứ ba của Caesar, tức
tam vương tử. Binh lính yêu mến vị thống soái
này, thống soái cũng yêu thương binh lính. Hiện thời,
cánh quân linh hồn ấy đã biến thành du hồn, hết
sức tích cực, dựa vào thân một người để
kể câu chuyện này. Chúng tôi đến thăm La Mã,
đem chuyện này nói với người La Mã, người
La Mã có biết hay không? Biết, quả thật là trong lịch
sử của họ có ghi chép, sau khi đã phái đi một
đạo quân bèn chẳng có tin tức, biến thành một
điều bí ẩn. Thuở ấy, người ta tưởng
chắc là do bị lạc đường, nên đội
quân ấy bị mất tích. Nay thì biết toàn bộ đã
chết tại Trung Quốc. Quý vị thấy chuyện
cách đây hai ngàn một trăm năm, những linh hồn
ấy vẫn còn hết sức tích cực, chẳng giả.
Sau khi đã chết, họ biết rất nhiều chuyện,
biết gì vậy? Giết người phải đền
mạng, cướp đoạt phải đền nợ!
Chẳng đạt được tí ti tiện nghi nào! Vì
thế, cuốn sách ấy là giáo dục nhân quả. Sau nhiều
năm sống trong khổ sở như vậy, họ gặp
Phật pháp, bèn quy y Tam Bảo tập thể. Bồ Tát từng
bảo họ: “Trung Quốc chẳng phải là chỗ của
quý vị, quý vị đến đây làm gì?” Tôi đọc
cuốn sách ấy, đối với tôi, câu nói đó có một
sự khải thị rất lớn, nói rõ điều gì?
Dùng chiến tranh để cướp đoạt thì
[đoạt được] vẫn là do trong mạng quý vị
vốn có, quý vị nói xem có oan uổng hay không? Trong mạng
chẳng có, dùng phương pháp chiến tranh vẫn chẳng
thể đạt được! Vì thế, lập tức
khiến cho chúng tôi nghĩ đến người Nhật
phát động chiến tranh xâm lược Trung Quốc,
đánh nhau tám năm rồi đầu hàng. Trung Quốc chẳng
phải là nơi chốn của Nhật Bản, quý vị
đến làm gì? Tin tức này cho chúng ta biết: Dùng võ lực
chiếm đoạt người khác, rất sai lầm, phạm
tội ác rất nặng.
Cổ
nhân nói rất hay: “Mạng lý hữu
thời chung tu hữu, mạng lý vô thời mạc cưỡng
cầu” (Trong mạng có, ắt rồi phải có; số
đã không có, chớ cưỡng cầu). Quý vị phải
tin vào nhân quả báo ứng. Quý vị mong phát tài, trong kinh có
lý luận và phương pháp để phát tài. Quý vị học
theo thì mới có thể phát tài; đúng lý, đúng pháp thì mới
có thể đạt được. Chẳng đúng lý, chẳng
đúng pháp, dựa vào phiền não tập khí của chính
mình, dùng các thứ thủ đoạn bất chánh để
đạt được, vẫn là do trong mạng có. Nếu
trong mạng chẳng có, sẽ không đạt được,
dẫu đạt được rồi cũng bị mất
đi, sao lại khổ sở đến thế? Vì thế,
giáo dục nhân quả tốt đẹp lắm, có thể
giúp chúng ta sống cuộc đời bình thường.
Chúng ta cầu trí huệ, cầu sống lâu, cầu của
cải, trong kinh Phật đều có các phương pháp,
có lý luận. Hãy đúng lý, đúng pháp mà cầu. “Trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”, chẳng có gì không cầu được.
Khó nhất là cầu thành Phật. Quý vị thấy thành Phật
mà còn có thể cầu được, những thứ tiếng
tăm, lợi dưỡng thế gian, thường gọi
là “công danh, phú quý”, nhìn theo Phật pháp sẽ toàn là chuyện
vặt vãnh, quá nhỏ nhoi, lẽ nào chẳng thể cầu
được! Vì sao không dùng phương pháp bình thường
để cầu, mà cứ phải dùng thủ đoạn
phi pháp? Do thủ đoạn phi pháp mà cầu được,
là do trong mạng quý vị có, nhưng vẫn là phạm tội!
Phạm tội thì tuy quý vị cầu được, trong
mạng đã bị chiết khấu, suy giảm, nhưng
chính quý vị chẳng biết! Nếu quý vị biết,
trong mạng quý vị phú quý là do nhiều đời nhiều
kiếp trong quá khứ đã tu tập, tích lũy. Trong Phật
pháp có đạo lý to lớn, chớ nên không biết.
Kinh
văn đã nêu rõ trạng huống khi Thích Ca Mâu Ni Phật
diệt độ, Ngài ở trong rừng Sa La Song Thụ,
lìa khỏi thế gian ở nơi ấy, nhập đại
tịch định. Đại tịch định là Đại
Bát Niết Bàn, nhập Vô Dư Niết Bàn, đức Phật
đã khuất bóng. Đây là tướng cuối cùng trong
tám tướng thành đạo của Thích Ca Mâu Ni Phật,
vì sao phải thị hiện tướng ấy? Nếu
đức Phật chẳng thị hiện tướng ấy,
thường trụ trong nhân gian, kẻ bình phàm sẽ nẩy
sanh hiểu lầm: Phật là một vị thần,
trường sanh bất lão, làm sao chúng ta có thể làm
được? Chúng ta sẽ chẳng dám học tập
Ngài. Vì thế, đức Phật thị hiện giống
như kẻ bình phàm chúng ta, có sanh, lão, bệnh, tử, mọi
người liền tin tưởng. Phật chẳng phải
là thần, Phật là người, Ngài có thể làm
được, chúng ta cũng có thể làm được,
tín tâm bèn mười phần trọn đủ. Đồng
thời, Ngài đã ban cho chúng ta một sự cảnh giác
cao độ, lúc quý vị thấy đức Phật tại
thế, tuy theo học với Ngài, nhưng chẳng nghiêm
túc, giải đãi, lười nhác, tán loạn. Đức
Phật đã tịch rồi, đức Phật đã khuất
bóng thì không còn chỗ nương cậy, nếu không nghiêm
túc nỗ lực, mai sau sẽ xoay sở ra sao? Kích động,
phát khởi đạo tâm nghiêm túc tu học của chính
mình! Có hai thứ ý nghĩa như vậy, khiến cho chúng
ta biết đức Phật chẳng thường trụ
lâu dài trong nhân gian, Phật sẽ ra đi, chúng ta phải nắm
chặt thời tiết nhân duyên này! Sau khi đức Phật
đã khuất bóng, Ngài có dạy chúng ta, pháp vận của
lão nhân gia dài đến một vạn hai ngàn năm. Pháp vận,
nói theo cách hiện thời, sẽ là “sức ảnh hưởng”. Nói theo phương
diện không gian, Ngài có sức ảnh hưởng trên cả
thế giới. Nói theo phương diện thời gian,
Ngài có sức ảnh hưởng suốt một vạn hai
ngàn năm. Đó là đại đức. Chẳng phải
là đại đức thì làm sao có thời gian ảnh
hưởng lâu dài như thế?
Chúng ta hiểu rõ,
chỉ biết Phật giáo hiện thời tuy suy vi, pháp vận
của đức Phật hãy còn kéo dài tới tám ngàn năm
sau. Pháp vận của đức Phật có lúc lên cao, có khi
xuống thấp, hiện thời nhằm lúc thoái trào, trong
tương lai sẽ có cao trào hay chăng? Khẳng định
là có. Nhưng chúng ta nhất định phải nhận biết
Phật pháp là giáo dục, quyết định chẳng phải
là tôn giáo, phải hiểu rõ điều này. Phật giáo thừa
nhận trong vũ trụ có thần, có quỷ thần, có
thiên thần, có Phật, Bồ Tát trong các thế giới
phương khác, đó là vũ trụ quan Phật giáo.
Nhưng Phật trọn chẳng sùng kính thần, chư vị
phải biết điều này. Nói đúng ra là quan hệ giữa
chúng ta và Phật giống như quan hệ giữa người
và người, chỉ là chúng sanh trong các chiều không gian
khác nhau. Dục Giới Thiên và Sắc Giới Thiên khác chiều
không gian với chúng ta. Quỷ thần cũng chẳng thuộc
cùng một kích thước không gian với chúng ta. Nếu
chúng ta có thể đột phá các chiều không gian, quý vị
có thể thấy trọn vẹn. Có năng lực đột
phá hay không? Có năng lực, tâm thanh tịnh hiện tiền,
thời gian và không gian đều chẳng có. Nói theo Phật
pháp, quý vị có thể chứng đắc quả vị A
La Hán, có thể siêu việt thời gian và không gian. Bồ
Tát có năng lực lớn hơn nữa, năng lực của
Phật trọn khắp pháp giới, hết thảy chướng
ngại đều chẳng có. Vì lẽ đó, bao nhiêu là
thiên thần và quỷ thần đều là đệ tử
Tam Bảo, quy y Phật Đà, họ cũng nghe kinh, nghe
pháp, cũng tu hành, cũng niệm Phật, người cầu
sanh Tịnh Độ cũng rất nhiều. Quỷ thần
đều phát tâm cầu sanh Tịnh Độ; nếu
chúng ta chẳng phát tâm thì ngay cả quỷ thần cũng
chẳng sánh bằng, chớ nên không hiểu đạo lý
này!
Tiếp
theo là: “Hựu Chân Giải vân:
Phổ Đẳng tam-muội cập đại tịch
định, tịnh thị Niệm Phật tam-muội dị
danh dã. Kim Phật vị thuyết Niệm Phật pháp môn,
trụ Niệm Phật tam-muội” (Sách Chân Giải lại
viết: “Phổ Đẳng tam-muội và đại tịch
định đều là tên gọi khác của Niệm Phật
tam-muội. Nay đức Phật vì để nói pháp môn Niệm
Phật bèn trụ trong Niệm Phật tam-muội”). Cách giải
thích càng ngày càng gần gũi Tịnh Tông. Phổ Đẳng
tam-muội: Phổ (普) là phổ biến, trọn khắp pháp giới là Phổ;
Đẳng (等) là bình đẳng. Ba căn đều thích hợp
trọn khắp, thâu gồm toàn bộ lợi căn và
độn căn, đó là Đẳng. Bất luận
căn tánh như thế nào, pháp môn Niệm Phật vãng sanh
Tịnh Độ là phổ đẳng, tức là chẳng
có mảy may sai biệt, phổ biến bình đẳng. Chỉ
cần quý vị gặp gỡ, chỉ cần quý vị có
thể tin, hiểu, thật tu, chẳng có ai không vãng sanh.
Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng
thể nào không thành Phật. Tới Tây Phương Cực
Lạc thế giới, thành Phật có sớm hay muộn,
đó là do mỗi người siêng năng hay lười biếng
khác nhau. Dũng mãnh, tinh tấn, đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới sẽ
thành Phật rất nhanh. Giải đãi, lười biếng,
tán loạn, chẳng sốt sắng, sẽ chẳng bị
thoái chuyển, [chỉ là] tiến bộ chậm hơn,
nhưng vẫn thành Phật. Do đó nói pháp môn này là pháp
môn Phổ Đẳng, còn đến đâu để tìm nữa?
Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, có rất nhiều môn bất
bình đẳng, có những pháp môn chỉ thích hợp bậc
thượng thượng căn, kẻ bình phàm chẳng tu
được. Có những pháp môn chỉ thích hợp bậc
thượng căn, kẻ trung hạ chẳng có phần.
Có những pháp môn thích hợp kẻ hạ căn, người
thượng căn cũng chẳng thể học. Ví
như trong kinh Tiểu Thừa, có rất nhiều kinh giảng
pháp nhân thiên, những bậc thượng căn biết
sanh thiên chẳng rốt ráo, nên chẳng muốn học. Chẳng
giống như pháp môn Tịnh Tông, pháp môn này đúng là Phổ
Đẳng tam-muội, học pháp môn này bình đẳng.
Chúng ta chọn cách trì danh niệm Phật. Trong Thập Lục
Quán Kinh, Trì Danh Niệm Phật là phép Quán cuối cùng, tức
phép Quán thứ mười sáu. Được liệt kê cuối
cùng thì cũng là pháp môn kỳ lạ, đặc biệt nhất.
Đối với chuyện này, Cổ Ấn Độ và
Trung Hoa có nhiều chỗ rất giống nhau, khi diễn
xuất nghệ thuật, màn biểu diễn hay nhất
được đặt cuối cùng, người Ấn
Độ cũng giống như vậy. Vì thế, phép Quán
cuối cùng trong mười sáu phép Quán sẽ là pháp môn trọng
yếu nhất và thù thắng nhất trong mười sáu
phép Quán, tức là Trì Danh Niệm Phật. Trước nó, có
các phép Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm
Phật, cuối cùng là Trì Danh Niệm Phật, chúng ta phải
biết đạo lý này.
Kinh
dạy: “Phổ Đẳng
tam-muội cập đại tịch định, tịnh
thị Niệm Phật tam-muội dị danh” (Phổ
Đẳng tam-muội và đại tịch định
đều là tên gọi khác của Niệm Phật tam-muội),
là biệt danh. Phổ Đẳng tam-muội là Niệm Phật
tam-muội, kinh còn gọi nó là Đại Tịch Định.
“Kim Phật vị thuyết Niệm
Phật pháp môn, trụ Niệm Phật tam-muội” (nay
vì nói pháp môn Niệm Phật, đức Phật trụ
trong Niệm Phật tam-muội): Trong pháp hội hiện thời,
đức Phật vì đại chúng nói pháp môn Niệm Phật,
giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới
cặn kẽ cùng đại chúng. Phật trụ ở
nơi đâu? Phật trụ trong Niệm Phật tam-muội.
“Ức Phật, niệm Phật,
hiện tiền đương lai, tất định kiến
Phật” (nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại,
tương lai, nhất định thấy Phật), tin tức
này nhằm bảo với chúng ta: Trong tâm chúng ta tưởng
Phật, miệng niệm Phật, được Phật
lực gia trì; hiện tiền, tương lai nhất định
thấy Phật là Phật lực gia trì. Phật ở chỗ
nào? Không nơi đâu, Phật chẳng hiện diện,
không lúc nào chẳng tồn tại. Thiền sư Trung Phong
bảo chúng ta: “Phương này
chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là phương
này”. Vì thế, Phật không lúc nào chẳng hiện diện,
không nơi đâu chẳng hiện hữu. Phật do
đâu mà có? Phật là tự tánh biến hiện. “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh
Độ”, “tâm ta chính là Di
Đà, Di Đà chính là tâm ta”. Quý vị thấy đó: Nói
rất rõ ràng, rất minh bạch, những đoạn kinh
văn khai thị ấy đã giúp chúng ta đoạn nghi
sanh tín. Khi trước, tôi thường nói: Chúng ta mong mỏi
xã hội an định, thế giới hòa bình, phải
như thế nào thì mới thực hiện được?
Người trên thế giới ai nấy đều có thể
làm tròn những việc thuộc về bổn phận của
chính mình, điều này rất trọng yếu.
Tương thân, tương ái những người có nghề
nghiệp khác biệt, cùng nhau hợp tác, xã hội sẽ an
định, phồn vinh, thế giới cũng thật sự
hài hòa, mà cũng chẳng có tai nạn, [các tai nạn đã
bị] hóa giải rồi! Mỗi người thực hiện
tốt đẹp những chuyện thuộc bổn phận,
bổn phận của người xuất gia học Phật
là gì? Bổn phận là giảng kinh, giáo học, bổn phận
là như vậy đó! Xuất gia thì phải học theo
Thích Ca Mâu Ni Phật, tại gia phải học theo cư
sĩ Duy Ma. Cư sĩ Duy Ma là đức Phật tại
gia, Thích Ca Mâu Ni Phật là Phật xuất gia, các Ngài có cùng
đẳng cấp, chẳng có cao thấp!
Từ
kinh điển, từ kinh Duy Ma Cật, chúng ta thấy
cư sĩ Duy Ma giảng kinh, thuyết pháp, các vị Đại
Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất đến nghe kinh.
Quý vị thấy các Ngài đối với cư sĩ Duy
Ma lễ kính, đảnh lễ ba lạy, nhiễu theo chiều
bên phải ba vòng, lễ tiết hoàn toàn giống như gặp
Thích Ca Mâu Ni Phật. Sự biểu diễn ấy nhằm
bảo chúng ta: Phật giáo là sư đạo, là giáo dục.
Trong sư đạo, thầy lớn nhất, tôn sư trọng
đạo. Chẳng thể nói quý vị là đệ tử
của Thích Ca Mâu Ni Phật, đến chỗ cư sĩ
Duy Ma nghe kinh, sẽ cao hơn người ta một bậc.
[Nếu nghĩ như vậy] trật mất rồi! Chẳng
có đạo lý ấy! Vì thế, người thăng tòa giảng
kinh là lớn nhất. Cư sĩ Duy Ma là nam tử. Nếu
là nữ chúng tỳ-kheo-ni thăng tòa giảng kinh, nam chúng
đến nghe kinh, phải ghi nhớ: “Thầy luôn là lớn
nhất!” Chẳng còn phải bàn ra tán vào chi nữa! Bà ta
thăng tòa, đại diện cho Phật giảng kinh, giáo
học, tỳ-kheo trông thấy phải lễ bái. Không lễ
bái tức là chẳng tôn trọng pháp! Vị tỳ-kheo-ni ấy
lại chẳng dám nhận lễ, làm như thế nào?
Đặt trên giảng đài, trước mặt vị ấy
một bức tượng Phật. Khi người ta lạy
sẽ là lạy tượng Phật, ta ở sau tượng
Phật, cách làm này cũng đúng pháp, cũng rất tốt.
Trước giảng đài thờ tượng Phật,
khi tỳ-kheo đến sẽ bái Phật. Do đó, Phật
pháp có phương tiện thiện xảo, chẳng
đánh mất tâm cung kính. Vì tâm cung kính, chẳng phải chỉ
là cung kính pháp, cung kính thầy, mà còn khiến cho đại
chúng đều trông thấy, làm cho đại chúng đều
học tập, người lên đài thăng tòa đại
diện cho Phật! Khi vị thầy của chính mình nếu
đến nghe [học trò giảng] kinh thì cũng phải
đối trước [người giảng] xá chào, cung
kính Tam Bảo. Đó là biểu diễn, thường nói là
làm Ảnh Hưởng Chúng, đều nhằm hướng
dẫn, giáo hóa chúng sanh. Vì vậy, dụng ý biểu thị
pháp rất sâu.
“Cố tri đại tịch
định, thông thuyết tức vi Phật chi Thiền
Định, danh Đại Bát Niết Bàn. Nhược án
kim kinh, tắc chỉ Niệm Phật tam-muội. Niệm
Phật tam-muội xưng Bảo Vương tam-muội,
vi tam-muội trung vương. Kim nhật Thế Tôn khai diễn
Tịnh Độ pháp môn, cố nhập Niệm Phật Bảo
Vương tam-muội” (Như vậy, Ðại Tịch Ðịnh nói chung là
một thứ Thiền Định của Phật mang tên
Ðại Niết Bàn. Nếu xét theo kinh này, chữ “đại tịch
định” chỉ
Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội
được gọi là Bảo Vương tam-muội, là
vua trong các tam-muội. Giờ đây, đức Thế Tôn
khai diễn pháp môn Tịnh Ðộ, nên Ngài nhập Niệm
Phật Bảo Vương tam-muội). Ý nghĩa này rất
sâu, từ danh xưng của tam-muội, chúng ta có thể thấu
hiểu, “kim kinh” là nói đến
kinh Vô Lượng Thọ, nói về điều gì? Niệm
Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội được
gọi là Bảo Vương, hai chữ này rất khó có. Bảo
(寶) là tỷ dụ, hình dung pháp môn này
quý báu. Quý vị thấy bảy báu trong thế gian, vàng, bạc,
lưu ly, mã não… Quý vị có được bảy báu, sẽ
xa lìa sự nghèo cùng thiếu thốn trong cuộc sống vật
chất, đạt được của cải, giàu có. Ở
đây, chữ Bảo chỉ Phật pháp. Phật pháp còn
trân quý hơn bảy báu của thế gian. Của báu trong
thế gian có thể giúp đỡ thân mạng, khiến cho
thân mạng quý vị sống thoải mái. Pháp Bảo có thể
giúp đỡ huệ mạng, cũng có nghĩa là Pháp Bảo
đem lại cuộc sống tinh thần còn thù thắng
hơn cuộc sống vật chất. Cuộc sống vật
chất dẫu phong phú cách mấy đi nữa mà chẳng
có cuộc sống tinh thần; đó gọi là “giàu mà không
vui”. Người ấy tuy giàu có, tuy địa vị rất
cao, sống cuộc đời rất nhọc nhằn.
Chúng ta thường thấy chuyện này, trong xã hội, gần
như mỗi ngày quý vị đều thấy như vậy.
Họ sống cuộc đời chẳng vui sướng,
chẳng hạnh phúc! Người có cuộc sống tinh thần
phong phú, sẽ sung sướng. Tuy nghèo cùng, chẳng có của
cải, hèn mọn, chẳng có địa vị, [tức
là] chẳng có địa vị trong xã hội, chẳng có
tài sản, nhưng mỗi ngày sống vui sướng. Niềm
vui do đâu mà có? Niềm vui sanh từ trí huệ, trí huệ
là cội nguồn của cuộc sống tinh thần, thật
sự đem lại hạnh phúc mỹ mãn, vui sướng
vô cùng! Nói nông cạn, người có trí huệ chẳng tạo
nghiệp. Không tạo nghiệp sẽ chẳng hứng chịu
khổ báo, tương lai chẳng có thân này, tuyệt đối
không vào ba ác đạo. Tâm địa thanh tịnh, người
công phu tốt đẹp một chút sẽ biết chính mình
đến đâu, không nhất định phải là học
Phật thì mới biết trước lúc mất, người
chẳng học Phật cũng tự biết trước
lúc mất. Có nhiều người sanh lên cõi trời, lúc mạng
chung, chư thiên đến tiếp dẫn, đồng nam
đồng nữ cõi trời đến tiếp dẫn
người ấy vãng sanh, biết sẽ ra đi khi nào.
Phước báo cõi trời lớn hơn nhân gian nhiều lắm,
tâm địa cũng thanh tịnh hơn nhiều! Người
công phu tu hành tốt đẹp, chứng đắc quả
vị, lại càng chẳng cần phải nói nữa. Có A
La Hán tiếp dẫn, thiện thần tiếp dẫn, Bồ
Tát tiếp dẫn. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới là A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, quý
vị thấy thù thắng dường ấy. Đó gọi
là Bảo Vương tam-muội.
Tu
Niệm Phật tam-muội như thế nào? Kinh dạy
chúng ta: “Phát Bồ Đề
tâm, một mực chuyên niệm”. Khi nào sẽ đắc
tam-muội? Tam-muội là tiếng Phạn, dịch nghĩa
sang tiếng Hán là Chánh Thọ, hoặc Chánh Định. Thọ
(受) là hưởng thụ. Chánh Thọ
là sự hưởng thụ đúng đắn. Trong kinh,
đức Phật đã dạy: Lục đạo phàm phu
hưởng thụ cuộc sống hằng ngày bất bình
thường! Đức Phật nói có năm thứ [cảm
thụ], thân có khổ vui, tâm có lo mừng. Vì thế, năm
thứ cảm thụ ấy là nói gộp thân và tâm lại,
tức là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Chữ cuối
cùng là Xả, tức là thân chẳng có khổ, vui, tâm
cũng chẳng có lo, mừng; nay khổ, lạc, ưu, hỷ,
xả đều chẳng có, nên gọi là Xả Thọ.
Trên thực tế, Xả Thọ và Chánh Thọ hết sức
gần gũi, vì sao chẳng gọi Xả là Chánh? Vì thời
gian Xả rất ngắn, rất nhanh, quý vị lại có
khổ, lạc, ưu, hỷ. Chánh Thọ là khổ, lạc,
ưu, hỷ thật sự chẳng có. Chẳng có khổ,
lạc, ưu, hỷ, xả thì gọi là Chánh Thọ. Chánh
Thọ là như trong tựa đề kinh có nói “thanh tịnh, bình đẳng,
giác”. Thanh tịnh là Chánh Thọ của A La Hán và Bích Chi
Phật, là cảnh giới tam-muội của các Ngài. Bình
đẳng là Chánh Thọ của Bồ Tát. Giác là Chánh Thọ
của chư Phật, chúng ta thường nói là bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ. Đạt đến giác, đương nhiên thanh tịnh
và bình đẳng đều trọn đủ. Đạt
đến bình đẳng, chẳng đạt được
giác. Đạt được bình đẳng bèn có thanh tịnh,
điều sau bao gồm điều trước, điều
trước chẳng bao gồm điều sau. Do đó,
pháp môn Niệm Phật được gọi là Bảo
Vương tam-muội, điều này quá khó có, hy hữu! “Kim nhật Thế Tôn khai diễn
Tịnh Độ pháp môn, cố nhập Niệm Phật Bảo
Vương tam-muội” (Giờ đây, đức Thế Tôn khai diễn
pháp môn Tịnh Ðộ, nên Ngài nhập Niệm Phật
Bảo Vương tam-muội); do đó mới có chuyện kỳ
đặc phóng quang, hiện tướng lành, đó là tự
nhiên cảm ứng, đức Phật chẳng khởi tâm
động niệm, chúng ta nhất định phải biết
điều này. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng
ta học tập tới chỗ này!
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 70
hết
[1] Thật ra, ngài Cảnh Hưng là người xứ Tân La (một vương quốc cổ vào thời Tam Quốc của Đại Hàn), không rõ năm sanh và năm mất (có thuyết nói Ngài sanh vào thế kỷ thứ bảy), có họ ngoài đời là Thủy, quê ở xứ Hùng Xuyên, xuất gia năm mười tám tuổi, tinh thông Tam Tạng, được tôn làm Quốc Sư, trụ trì chùa Tam Lang, chuyên tâm trước thuật. Ngài đặc biệt ưa thích kinh Hoa Nghiêm. Một hôm cưỡi ngựa vào hoàng cung, được Văn Thù Bồ Tát ngầm răn dạy, nên từ đó không bao giờ cỡi ngựa nữa. Ngài cho khắc sự tích này vào văn bia tại chùa Tam Lang. Ngài trước thuật khá nhiều, đặc biệt là các bộ Đại Bát Niết Bàn Kinh Sớ, Kim Quang Minh Kinh Thuật Tán, Tứ Phần Luật Yết Ma Ký, Đại Thừa Khởi Tín Luận Vấn Đáp, Du Già Luận Sớ… rất nổi tiếng. Ngài được tôn là sáng tổ của Pháp Tướng Tông tại Đại Hàn. Đặc biệt là bộ Vô Lượng Thọ Kinh Liên Nghĩa Thuật Văn Tán của Ngài được các vị Nguyên Tín (Pháp Nhiên thượng nhân, sáng tổ Tịnh Độ Tông Nhật Bản) và Thân Loan (sáng tổ Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản) trích dẫn rất nhiều trong trước thuật của họ, nên dễ gây hiểu lầm ngài Cảnh Hưng là một vị danh tăng người Nhật.
[2] Bổn (本) ở đây có nghĩa là quả vị chứng đắc thật sự, trong khi Tích (跡) là những sự thị hiện nhằm hóa độ. Chẳng hạn, ngài A Nan thị hiện thân phận Sơ Quả Tu Đà Hoàn, nhưng Bổn của Ngài phải là bậc Pháp Thân Đại Sĩ, vì trong kinh Pháp Hoa đã nói rõ các đệ tử Thanh Văn của Ngài là“nội bí Bồ Tát hạnh, ngoại thị hiện Thanh Văn” (bên trong là hạnh Bồ Tát bí mật, bên ngoài hiện tướng Thanh Văn).
[3] Văn Uyên Các (文淵閣, tên Mãn Châu là Šu Songkon Asari) chính là tàng thư lâu của triều đình nhà Thanh. Kiến trúc nằm phía Bắc điện Văn Hoa, thuộc trong phạm vi của Tử Cấm Thành. Thật ra, công trình này được kiến tạo vào đời Vĩnh Lạc nhà Minh. Cũng giống như Văn Uyên Các thuộc cố cung Nam Kinh, Văn Uyên Các ở Bắc Kinh cũng nằm ở góc Đông Nam cửa Tả Thuận, và đã hư hại theo thời gian. Đến thời Càn Long, nhà vua hạ lệnh xây Văn Uyên Các phía sau điện Văn Hoa trên nền cũ của Thánh Tế Điện, mãi đến năm Càn Long 41 (1776) mới dựng xong, chủ yếu để lưu trữ Tứ Khố Toàn Thư và Khâm Định Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành. Sau khi xây xong, mỗi tháng vua ra lệnh cho các đại học sĩ mở một buổi kinh diên (khóa giảng về kinh sách Nho giáo) cho các học trò Quốc Tử Giám tại đó.
[4] Mao Toại là người nước Triệu, sống vào thời Chiến Quốc, là môn khách của Bình Nguyên Quân (Triệu Thắng) đã lâu, nhưng chưa ai biết tới tài năng. Năm thứ chín đời Triệu Hiếu Thành Vương (275 trước Công Nguyên), nước Tần vây hãm kinh thành Hàm Đan của nước Triệu, Bình Nguyên Quân cầm tiết việt sang nước Sở cầu cứu. Mao Toại thừa dịp, tự giới thiệu, đề cao mình, đối đáp khẳng khái, nên được Bình Nguyên Quân cho theo đàm phán. Khi Bình Nguyên Quân và Sở Khảo Liệt Vương đang bàn cãi, Mao Toại bèn nói rạch ròi lẽ lợi hại, khiến vua Sở đồng ý liên minh với Triệu. Vì chuyện này mới có thành ngữ “Mao Toại tự tiến”. Bình Nguyên Quân là con của Triệu Linh Vương (Triệu Ung), em trai Triệu Huệ Văn Vương (Triệu Đan), từng giữ chức Tể Tướng của hai đời vua Triệu Huệ Văn Vương và Triệu Hiếu Thành Vương. Ông là một chính trị gia nổi tiếng, đồng thời nuôi rất nhiều môn khách (danh sĩ đến làm cố vấn). Bình Nguyên Quân cùng với Mạnh Thường Quân (Điền Văn) nước Tề, Tín Lăng Quân (Ngụy Vô Kỵ) nước Ngụy, và Xuân Thân Quân (Hoàng Hiệt) nước Sở nổi tiếng là những người rộng lượng, hiền đức, được người đương thời gọi chung là Chiến Quốc Tứ Công Tử.